Mô thức học Phật (Phần 1)
Hiện nay có rất nhiều mô thức để hướng dẫn việc tu học cũng như việc thuyết giảng. Dưới đây là những mô thức thường nói đến, mỗi mô thức được sắp đặt theo tiêu chuẩn khác nhau để tùy nghi ứng dụng, miễn sao thích hợp với từng trường hợp cá biệt người thiện học để dẫn đến đạo quả như ý.
Phật học bao trùm vô lượng pháp, thường nói là vạn pháp. Về sự học Phật thường nói là tám vạn bốn ngàn pháp môn để tùy duyên tu học, thích ứng với mọi căn cơ của hành giả tùy theo căn cơ, trình độ khác nhau. Do đó có rất nhiều mô thức để hướng dẫn việc tu học cũng như việc thuyết giảng.
Tam pháp Giáo-Hành-Chứng
Đây là mô thức theo tiêu chuẩn thứ tự liên tiếp từ sự nhận thức Phật pháp đến sự thực hiện và theo dõi kết quả việc vâng theo lời Phật dạy:
Giáo pháp
Đây là những phép dạy Đạo lý Phật giáo gồm tất cả những lời thuyết giảng trọn đời của Đức Thích Ca ghi lại trong Tam Tạng Kinh Luật Luận, chia làm 12 bộ. Giáo pháp làm sáng tỏ niềm tin, tương đương như Tín và Giải trong tiến trình học Phật đã nói ở bài trước.
Hành pháp
Đây là những phép dạy thực hiện điều đã học ở Giáo pháp: Tứ đế (3), Thập nhị Nhân duyên (4), Lục độ (5).
Chứng pháp
Đây là những phép chứng đắc tùy theo mức độ Hành pháp viên mãn:
Hành pháp Tứ Đế dẫn đến đắc quả Thanh Văn, cuối cùng đắc quả La Hán (gọi đầy đủ là A-la-hán) tận diệt nghiệp chướng phiền não, gọi là Giải Thoát phiền não, chưa giải thoát được thì gọi là sở tri chướng.
Học Phật phải thấy lòng nhẹ nhàng
Ảnh minh họa.
Hành Pháp Thập nhị Nhân duyên dẫn đến quả Duyên Giác, cũng gọi là Bích-chi Phật hay Độc Giác Phật. Danh xưng Duyên Giác chú trọng đến sự thông suốt lý Nhân duyên mà giác ngộ. Danh xưng Bích-chi Phật và Độc Giác Phật chú trọng đến sự kiện hành giả sinh ra, tu học rồi đắc đạo vào thời không có Phật Như Lai, chỉ tự học và tự giác ngộ nhập Niết-bàn thành Phật.
Hành pháp Lục Độ dẫn đến đắc quả Bồ-tát và Phật Như Lai.Tam pháp ấnTam pháp Giáo-Hành-Chứng đều mang dấu ấn Phật pháp. Có ba dấu ấn gọi là Tam pháp ấn, bất cứ pháp môn nào không mang một trong ba dấu ấn thì không phải Phật pháp. Tam pháp ấn gồm có:
- Vô thường: Tất cả mọi sự sinh khởi đều có hủy diệt, đều vô thường.
- Vô ngã: Tất cả các pháp đều vô ngã, đều là giả hữu.
- Tịnh tịch Niết-bàn: Tất cả các pháp đều có bản thể Không tịch, mọi phiền não khổ đau đều là chao đảo do vọng thức đem đến.
Tam tuệ Văn-Tư-Tu
Mô thức này theo tiêu chuẩn phân tách đối tượng tu học, bất luận là pháp môn nào. Sự phân tách tinh vi làm tăng trưởng trí tuệ, do đó có danh xưng tam tuệ.
Văn tuệ
Từ ngữ Văn diễn hai ý tiếp nhận âm thanh và hiểu rõ ý nghĩa, dịch ra tiếng Việt là nghe thấy (nghe và thấy), nghe thủng. Nếu chỉ nghe mà không thấy, tiếng Hán là Thính. Cũng như từ ngữ Kiến có nghĩa nhìn thấy, nhìn rõ. Nếu chỉ nhìn mà không thấy, tiếng Hán là Thị. Do đó, có thành ngữ “Thính nhi bất văn, thị nhi bất kiến”. Nghĩa là chỉ sự chậm hiểu, kém thông minh, nghe mà không thủng, nhìn mà không thấy. Tiếng ghép đôi Kiến văn chỉ sự hiểu biết, tương đương như Kiến thức, Học thức.
Ông A-Nan nghe lời Phật dạy, hiểu đầy đủ tường tận ý Phật muốn truyền đạt nên được Phật khen là Đa văn đệ nhất trong hàng đệ tử. Nếu nghe mà chỉ hiểu rõ một phần, ý muốn truyền đạt gọi là Văn bất cụ túc (chẳng trọn vẹn hạnh Đa văn). Văn hiểu theo nghĩa rộng gồm cả Kiến, sự hiểu biết sau khi tai nghe mắt thấy. Đó chính là Văn tuệ, nghe nhìn rồi thông suốt ý nghĩa, mở rộng Trí tuệ.
Tư tuệ
Tư là suy xét, ngẫm nghĩ cho ra lẽ chân thật, đâu là chánh, đâu là tà. Cũng gọi là Tư duy. Từ ngữ Duy là nhớ tưởng, suy cho ra lẽ để noi theo. Có hai đường lối tư duy:
- Tà Tư duy, Hư vọng Tư duy là suy ngẫm theo thế tục, dục vọng, không có lợi ích gì cho chúng sanh về mặt thế gian và xuất thế gian.
- Chánh Tư duy, Chân thật Tư duy là suy ngẫm theo Chánh Đạo, diệt trừ phiền não nhằm giải thoát chúng sanh.
Chú thích:
(3) Tứ đế: Bốn Sự Thật, bốn Chân lý nhiệm màu. Cũng gọi là Tứ Diệu Đế, Tứ Chân Đế, Tứ Thánh Đế. Gồm có: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.
(4) Thập nhị nhân duyên: Mười hai Nhân Duyên làm cho chúng sanh luân hồi sanh tử, gồm có Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh và Tử.
(5) Lục độ: Cũng gọi là Lục độ Ba-la-mật. Đây là sáu pháp dẫn đến Giải Thoát, sáu đại hạnh trong Bồ-tát đạo: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Trí tuệ.
Còn tiếp.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam
Nghiên cứuKinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.
Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Nghiên cứuCó thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước
Nghiên cứuPhật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần
Nghiên cứuThời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.
Xem thêm














