Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ, 05/08/2024, 11:52 AM

Mối oan tình chấn động của Đệ tam Trúc Lâm Sư Tổ Huyền Quang

Tại non thiêng Yên Tử, 5 năm sau khi vua Trần Nhân Tông nhập niết bàn, chứng kiến một khảo nghiệm với ý chí kiên định của người tu hành nơi đây: Khảo nghiệm với Huyền Quang Tôn Giả, Đệ Tam Sư Tổ của Thiền phái Trúc Lâm.

Huyền Quang Tôn giả - Lý Đạo Tái

Huyền Quang Tôn giả (1254-1334) tên là Lý Đạo Tái, đỗ Trạng Nguyên năm 21 tuổi, được bổ về Hàn Lâm Viện .

Theo Tam tổ thực lục (三祖實錄), mẹ của Huyền Quang là bà Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì tuổi đã 30 mà chưa có con. Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy “các toà trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: ‘Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa.“

Năm ấy bà Lê Thị sinh Huyền Quang. Lớn lên Sư Huyền Quang dung mạo dị thường, làm quan đến chức Hàn lâm.

Một hôm, Sư cùng vua Trần Anh Tông (kế vị vua Trần Nhân Tông) đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa (tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm) giảng kinh, liền nhớ lại “duyên xưa“, xin xuất gia thụ giáo. Sư được cử làm thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà (Trần Nhân Tông) và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.

Cuộc đời của Huyền Quang Tôn giả gắn liền với những vầng hào quang huyền bí, mang đậm tính cách truyền thuyết và huyền thoại dân gian khi mới sinh ra.

Nhiều hội thảo được tổ chức về Huyền Quang Tôn giả.

Nhiều hội thảo được tổ chức về Huyền Quang Tôn giả.

Từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, tư chất thông minh, hiếu học, năm hai mươi tuổi, đỗ thi hương rồi năm sau đỗ đầu thi hội (1274); được bổ dụng vào Viện Nội hàn của triều đình, từng tiếp sứ Bắc bởi ông thông thạo thư tịch, giỏi đối đáp, ứng xử…

Chuyện kể rằng Lý Đạo Tái làm quan khoảng 20 năm, đến 51 tuổi thì xin xuất gia cửa thiền. Trong một lần cùng vua đến chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Phụng Nhãn (Bắc Giang), nhìn thấy Thiền sư Pháp Loa đang thuyết pháp, ông liền nhớ lại duyên xưa mà than rằng: “Làm quan thì lên đảo Bồng, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là tiên, cảnh giới Tây phương là Phật, phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hạ, há nên lưu luyến mãi mãi!”. Nhân đó, ông xin phép từ quan, xuất gia, đạo hiệu là Huyền Quang.

Mặc dù xuất gia ở tuổi trung niên, nhưng ông lại là người có khí chất của một bậc tu hành chân chính, một vị lãnh đạo Giáo hội tương lai. Huyền Quang được chọn làm phụ tá Sư tổ Trần Nhân Tông, cùng Trần Nhân Tông và Pháp Loa đi khắp nơi thuyết giảng Kinh Phật. Trần Nhân Tông còn ban cho Huyền Quang tòa trầm hương để giảng cho đồ chúng và giao trọng trách soạn các sách về Phật học như: Chư phẩm kinh, Công văn tập, Thích khoa giáo…

Tổ Trần Nhân Tông thường nói: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào".

Sư Huyền Quang phụng mệnh vua trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Vì tinh thông đạo lý nên tăng chúng đua nhau đến học. Tương truyền, tăng ni về theo học ông có đến khoảng 1.000 người.

Năm 1317, ông được Pháp Loa truyền y bát của Trúc Lâm và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa viên tịch năm 1330, ông kế thừa làm Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm nhưng vì tuổi đã cao nên ông giao phó trách nhiệm lại cho Quốc sư An Tâm. Ông đến trụ trì Thanh Mai 6 năm, sau dời sang Côn Sơn giáo hóa. Tại đây, ông có công tôn tạo mở rộng chùa với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng như đài Cửu phẩm Liên hoa, Am Bạch Vân, xây dựng tăng viện, đào tạo tăng ni, giảng kinh thuyết pháp… đưa Côn Sơn trở thành đại danh lam, đại tùng lâm. Ngày 23 tháng giêng năm Khai Hựu thứ 6 (1334), Đệ tam tổ Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn, Thái thượng hoàng Trần Minh Tông đã ban thụy hiệu là Trúc Lâm Thiền sư Đệ tam đại, đặc phong tự pháp Huyền Quang Tôn giả. Ngày viên tịch của Đệ tam tổ Huyền Quang đã trở thành ngày giỗ tổ của chùa Côn Sơn hằng năm.

Nhưng chuyện đời Sư Huyền Quang còn liên hệ đến một mối oan tình chấn động là một câu chuyện oan khuất, ly kỳ khác.

Năm Quý Sửu (1313), khi ấy Trúc Lâm Đầu đà Trần Nhân Tông đã tọa hóa (1308), sư Huyền Quang bị cung nữ Điểm Bích thời vua Trần Anh Tông gây ra câu chuyện oan tình.

Ký hoạ về mối oan tình của Huyền Quang Tôn giả.

Ký hoạ về mối oan tình của Huyền Quang Tôn giả.

Vậy nàng Điểm Bích là ai?

Theo các sách cổ và bia ký ghi lại thì Điểm Bích họ Nguyễn, lấy theo họ mẹ, người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, sinh vào cuối thế kỷ XIII.

Điểm Bích khi trưởng thành trở nên xinh đẹp lạ thường, lại thông minh; lúc 9 tuổi đã đ­ược tuyển làm cung nữ, vua khen là nữ thần đồng.

Trong "Tam Tổ thực lục" có chép, nàng là người “nõn nà chẳng kém gì Phi Yến, khéo léo còn hơn cả Điêu Thuyền… Lại có tính hiếu học, tam giáo cửu lưu, không thứ gì là không thông hiểu… Trường thiên, Ngũ ngôn, hễ mở miệng là thành chương”.

Khi vua Trần Minh Tông tâm sự về Thiền sư Huyền Quang trước quan hầu cận, tăng quan và đạo sĩ: “Người ta sinh ra trong khoảng trời đất, “cõng âm và ôm dương”, thích ăn ngon, ưa mặc đẹp, lòng ham muốn ấy bọn chúng ta đều có. Còn như gác bỏ một bên lòng ham muốn, dốc lòng phụng sự đạo, là để lo một mặt mà thôi. Vì sao chỉ mỗi một mình thầy Huyền Quang từ khi sinh đến giờ, vẫn sắc sắc không không, như nước không sóng, như gương không bụi, phải chăng Sư đè nén lòng dục, hay là không có lòng dục?”. Mạc Đĩnh Chi liền ứng tâu: “Vẽ cọp vẽ da, xương khó vẽ, biết người biết mặt biết đâu lòng! Xin hãy thử xem vì sao được như thế” thì nàng được chọn làm người để thử lòng Thiền sư Huyền Quang.

Đương thời từ dân gian đến quan triều người ta cho rằng Huyền Quang là một người chân tu. Ai cũng biết Ngài đã từ chối hôn nhân với Công chúa Liễu. Chuyện rằng sau khi được đỗ khoa, Sư được nhà vua gả Công chúa Liễu Nữ, tức cháu của An Sinh Vương Trần Liễu, nhưng Sư không chấp thuận. Có lẽ đó cũng là một điều khiến Trần Minh Tông thấy đặc biệt ở Thiền sư từ khi còn chưa có tâm quy Phật. Suốt 30 năm làm việc ở triều đình, Ngài chưa hề cùng người phụ nữ nào. Cuộc đời trong sáng đó không dễ ai cũng tin, nhất là tầng lớp Nho sĩ.

Bấy giờ trong triều Điểm Bích đang độ thanh xuân, tài sắc tuyệt vời. Vua Trần Anh Tông quyết định chọn Điểm Bích làm người kiểm nghiệm sự chân tu của Huyền Quang và dặn: “Phải lấy được vàng của Huyền Quang, nếu lão tăng còn dục vọng sắc tình”. Khi Huyền Quang ở Yên Tử tuổi đã ngoài 60, nhưng chỉ là đệ tử của Pháp Loa, vì khi ông xuất gia đã 52 tuổi. Nếu Điểm Bích “lấy được vàng của lão tăng”, sẽ mặc định là Huyền Quang phải động lòng trước giai nhân, tức chưa bỏ được dục vọng trần tục.

Từ kinh thành Thăng Long, Điểm Bích cùng một tiểu tì đến chùa Hoa Yên (Vân Yên), xin ở nhờ một bà vãi già. Lấy cớ xuất gia học đạo, ngày ngày nàng mang nước đến chỗ Huyền Quang. Qua nhiều lần tiếp xúc, Huyền Quang như không để ý đến người con gái xinh đẹp, dịu dàng hiếm thấy, nhưng thực tế thì sư quan sát rất kỹ nên hiểu thấu nội tâm nàng. Sư khuyên Điểm Bích hãy trở về, khi nào cao tuổi mới có thể tu được.

Một hôm, nàng kể với Sư nàng là con quan huyện thừa huyện Cẩm Hoá. Cha nàng mang 15 cân vàng nộp công khố, không may bị kẻ gian lấy cắp, may nhờ người thân và xóm giềng giúp đỡ đã gần đủ, nay nhờ sư phát tâm làm phúc cho chút đỉnh để trọn đạo với cha, nếu không, cha nàng sẽ mang trọng tội.

Huyền Quang động lòng thương cảm, nói với Tăng ni: “Ta vì người này để quảng đức hiếu sinh của Hoàng đế và làm một lương đồ cứu khổ cho chúng sinh”.

Một tiểu tăng nói: “Pháp luật là công cộng của thiên hạ, kẻ có của không biết giữ gìn cẩn thận, theo pháp luật mà trị là điều lệ công. Nay ta mang vàng công đức để lấy ơn riêng. Vậy có nên lấy ơn riêng mà bỏ phép công không?”. Huyền Quang thấy thế là phải, song vì lòng thương, Ngài vẫn lấy một dật vàng (nén vàng) cho nàng Điểm Bích.

Lấy được vàng, Điểm Bích trở về Kinh đô, dựng nên một chuyện hoàn toàn khác sự thật. Nàng tâu vua: “Một hôm sư lên chùa tụng kinh, đến trống canh ba, sư cùng các tăng ni về buồng ngủ. Thần thiếp đến bên cạnh phòng của sư, xem sư làm gì. Một lúc sau, sư ngâm một bài kệ rằng:

Vằng vặc trăng soi đáy nước,

Hiu hiu gió trúc ngâm sênh.

Người hoà tươi tốt cảnh hoà lạ,

Mâu Thích Ca nào thú hữu tình.

Sư ngâm nga mấy lần. Thần thiếp thấy sư còn thức, vào phòng xin phép sư về thăm mẹ, sang năm lại đến học đạo. Sư giữ thần thiếp lại một đêm và cho thần thiếp một dật vàng”.

Nghe xong, vua nói: “Nếu việc ấy có thực thì ta đã đạt được kế giăng lưới bắt chim. Nếu việc ấy không có, thì sư này cũng không tránh khỏi cái nghi ngờ qua ruộng dưa mà sửa giày.”

Tấm lòng trong sáng của sư Huyền Quang được trời đất chứng minh: Mối oan tình được rửa sạch

Vua sai mở hội Vô già ở phía Tây kinh thành, mời Huyền Quang về làm án pháp. Sư về đến Thăng Long, thấy sự thể như vậy, biết mình đã bị lừa.

Ngài ngửa mặt lên trời, than trời và lạy ba lần; cúi xuống đất, lạy ba lần; rồi đứng lên đàn tràng vọng bái mười phương.

Chuyện kỳ lạ bỗng xảy ra: Đang trời quang mây tạnh, vậy mà khi sư Huyền Quang cầu đảo, phút chốc gió mây mịt mù cuốn trôi hết đồ vàng bạc tạp phẩm, chỉ còn lại hương đèn đại lễ.  Nhà vua trước cảnh tượng trời đất minh chứng cho tấm lòng trong sạch của Huyền Quang, thấy nỗi oan khiên thông thấu lòng người cùng đất trời, liền vội vàng xuống đàn, xin lỗi sư và giáng Điểm Bích làm người quét chùa Cảnh Linh ở nội điện.

Từ đó mối oan tình của quốc sư được rửa sạch.

Ngày 5 tháng 2 năm Khai Hựu thứ hai (1330), Pháp Loa đang giảng kinh ở Viện An Lạc thì đột ngột mắc bệnh. Sư Pháp Loa về Viện Quỳnh Lâm tĩnh dưỡng nhưng bệnh càng trở lên trầm trọng. Thấy khó qua khỏi, Ngài cho mời Huyền Quang đến, trao cho những bảo bối mà 22 năm trước Điều ngự Đầu đà Trần Nhân Tông đã trao cho sư trước khi nhà vua băng hà, như: áo cà sa, tâm kệ, và nói rằng: “Huyền Quang sẽ là người hộ trì, thừa kế sự nghiệp“.

Đêm mồng 3 tháng 3 năm ấy, Pháp Loa viên tịch tại Viện Quỳnh Lâm. Kể từ đó, sự nghiệp của Thiền phái Trúc Lâm do Huyền Quang chủ trì và trở thành vị Tổ thứ ba của thiền phái này.

Huyền Quang từng ở chùa Thanh Mai 6 năm, rồi về trụ trì chùa Côn Sơn. Ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), sư viên tịch tại chùa Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông cho 10 lạng vàng xây tháp ở bên tả phía sau chùa, lấy tên là Đăng Minh bảo tháp, đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả, Tháp Huyền Quang hiện nay vẫn còn, ở sau chùa Côn Sơn, trên đường lên Bàn Cờ tiên và Thanh Hư động.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Từ nhân vật Đề Bà Đạt Đa nhận diện “thiện tri thức” trong Kinh Pháp Hoa

Nghiên cứu 16:00 02/09/2024

Thiện tri thức trong Kinh Pháp Hoa không còn bị bó buộc bởi hình tướng Phật, Bồ tát, chư thiên hay những vị ủng hộ đạo pháp mà đến ngay như hình tượng Đề-bà Đạt-đa, chuyên chống phá Phật cũng được nâng lên tầm cao mới trong kiến giải là “thiện tri thức”.

Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam

Nghiên cứu 11:15 02/09/2024

Kinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.

Một quyển luận thuyết triết học quý hiếm của Phật giáo Việt Nam

Nghiên cứu 13:00 24/08/2024

Tác phẩm chính là sự kết tinh tinh hoa đạo lực, trí tuệ của các thiền sư, Hòa thượng, Tăng sĩ vốn được xếp vào hàng danh sĩ tiếng tăm bậc nhất trong thời đại đó.

Khái lược thiền học Phật giáo Việt Nam

Nghiên cứu 14:40 16/08/2024

Thiền học Phật giáo nói chung, thiền học Phật giáo Việt Nam nói riêng có giá trị vượt không thời gian, hoàn toàn phù hợp với nền khoa học hiện đại, ngày càng được lưu truyền rộng rãi và được giới trí thức thế giới để tâm nghiên cứu.

Xem thêm