Nghi thức tụng kinh độ người hấp hối

Bài kinh này ý nghĩa thâm sâu, công dụng thực tế, giúp ta không còn chấp vào tứ đại là ta, không chấp ngũ uẩn là ta, vượt thoát chấp ngã, ngã sở. Khi bệnh, khi sắp lìa đời chúng ta quan sát thấu rõ như thật về thân, về ngũ uẩn như vậy thì sẽ an nhiên tự tại.

Nghi thức tụng kinh độ người hấp hối  1
Ảnh minh họa. 

Nghi thức tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện tại nhà đầy đủ nhất

Nam Mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Khai kinh

Phật pháp rất thâm diệu

Vạn ức kiếp khó tìm

Nay con được trì tụng

Nguyện hiểu và thực hành

Kinh độ người hấp hối

Đây là những lời tôi nghe từ khi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà gần thành Xá Vệ.

Một ngày kia, trưởng giả Cấp Cô Độc bị ốm nặng. Đại đức Xá Lợi Phất được thông báo, liền tìm đến đại đức A Nan và nói:

“Sư đệ nên cùng ta đi thăm cư sĩ Cấp Cô Độc.”

Đại đức A Nan mặc áo, cầm bát và đi cùng với đại đức Xá Lợi Phất vào thành Xá Vệ để cúng dường với cư sĩ Cấp Cô Độc. Hai vị tuần tự đi từng nhà và cuối cùng đến nhà của trưởng giả Cấp Cô Độc để thăm. Ngồi trên ghế, đại đức Xá Lợi Phất hỏi trưởng giả Cấp Cô Độc:

“Bệnh tình của cư sĩ thế nào? Có tăng giảm gì không? Những cơn đau trong cơ thể cư sĩ có giảm dần không hay là tăng thêm?”

Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời:

“Thưa các đại đức, tình trạng bệnh của tôi không có sự thuyên giảm. Những cơn đau trong cơ thể không chỉ không giảm mà còn ngày càng tăng.”

Xá Lợi Phất nói:

“Bây giờ cư sĩ hãy cùng chúng tôi thực tập quán niệm về Phật, về Pháp và về Tăng. Chúng ta hãy quán niệm như sau:

Phật là Như Lai, là bậc giác ngộ thật sự và cao tối thượng. Người là bậc Minh Hạnh Túc, Người là bậc Thiện Thệ, Người là bậc Giải Thoát, Người là bậc Vô Thượng Sĩ, Người là bậc Điều Ngự Trượng Phu, Người là bậc Thầy của Trời và người, Người là Phật, Người là Đức Thế Tôn.

Pháp là giáo lý do Như Lai truyền dạy, rất tinh tế, rất đáng tôn kính, rất quý giá, không có giáo lý nào sánh bằng. Pháp đó là con đường tu tập của các bậc hiền thánh.

Tăng là cộng đồng tu học dưới sự chỉ dẫn của Như Lai, tuân thủ quy tắc, không có tranh cãi, tu học mọi giáo lý đều đạt được. Cộng đồng thiêng liêng này đạt thành tựu Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát. Tăng là phúc trang vô thượng của thế gian.”

“Này cư sĩ, khi chúng ta thực tập quán niệm như vậy về Phật, về Pháp và về Tăng, công đức của chúng ta không thể định rõ. Quán niệm như vậy sẽ dẹp tan tội lỗi và phiền não, mang lại những kết quả ngọt ngào như cam lộ. Người đàn ông thiện lương hoặc người phụ nữ thiện chí nào biết quán niệm về Tam Bảo thì chắc chắn sẽ không bao giờ rơi vào ba con đường ác là địa ngục, quỷ dữ và sinh linh tà ác, trái lại sẽ được sinh ra trong những hoàn cảnh tốt đẹp ở cõi trời và cõi người.”

“Bây giờ chúng ta hãy tiếp tục quán niệm như sau về sáu giác quan:

Con mắt này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào con mắt này.

Tai này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào tai này.

Mũi này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào mũi này.

Lưỡi này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào lưỡi này.

Cơ thể này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cơ thể này.

Ý căn này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào ý căn này.”

“Cư sĩ hãy tiếp tục quán niệm như sau về sáu đối tượng giác quan:

Những hình ảnh này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào những hình ảnh này.

Những âm thanh này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào những âm thanh này.

Những mùi hương này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào những mùi hương này.

Những vị nếm này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào những vị nếm này.

Những xúc chạm này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào những xúc chạm này.

Những ý tưởng này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào những ý tưởng này.”

“Cư sĩ hãy tiếp tục quán niệm như sau về sáu thức:

Cái thấy này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cái thấy này.

Cái nghe này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cái nghe này.

Cái ngửi này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cái ngửi này.

Cái nếm này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cái nếm này.

Cái xúc chạm này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cái xúc chạm này.

Cái ý thức này không phải là tôi, tôi không bị mắc vào cái ý thức này.”

“Cư sĩ hãy tiếp tục quán niệm như sau về sáu yếu tố trong cơ thể:

Yếu tố đất không phải là tôi, tôi không bị mắc vào yếu tố đất.

Yếu tố nước không phải là tôi, tôi không bị mắc vào yếu tố nước.

Yếu tố lửa không phải là tôi, tôi không bị mắc vào yếu tố lửa.

Yếu tố gió không phải là tôi, tôi không bị mắc vào yếu tố gió.

Yếu tố không gian không phải là tôi, tôi không bị mắc vào yếu tố không gian.

Yếu tố tâm thức không phải là tôi, tôi không bị mắc vào yếu tố tâm thức.”

“Cư sĩ hãy tiếp tục quán niệm như sau về năm uẩn:

Hình ảnh không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi hình ảnh.

Cảm thụ không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi cảm thụ.

Tri giác không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi tri giác.

Tâm hành không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi tâm hành.

Nhận thức không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi nhận thức.”

“Cư sĩ hãy tiếp tục quán niệm như sau về thời gian:

Quá khứ không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi quá khứ.

Hiện tại không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi hiện tại.

Tương lai không phải là tôi, tôi không bị giới hạn bởi tương lai.”

“Cư sĩ ạ! Mọi sự đều sinh khởi và diệt theo nhân duyên, nhưng thực chất các sự đó không sinh cũng không diệt, không tới cũng không đi. Khi con mắt xuất hiện, nó xuất hiện mà không có nguồn gốc; khi con mắt biến mất, nó biến mất mà không đi đâu. Con mắt không phải là không tồn tại trước khi xuất hiện, con mắt không phải là có tồn tại trước khi biến mất. Tất cả mọi sự đều hình thành do sự hội tụ của nhân duyên. Khi nhân duyên đầy đủ, con mắt hiện hữu; khi nhân duyên kém, con mắt biến mất. Điều này cũng đúng với tai, mũi, lưỡi, cơ thể và ý thức; hình ảnh, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và ý tưởng; cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, xúc chạm và ý thức; sáu yếu tố, năm uẩn và thời gian.”

“Trong năm uẩn, không có gì có thể gọi là ta, người, và sự tồn tại. Không nhìn thấy điều đó chính là vô minh. Vì vô minh nên có vọng động, vì có vọng động nên có vọng thức, vì vọng thức nên có sự phân biệt chủ thể và đối tượng nhận thức, vì có chủ thể và đối tượng nhận thức nên có sự phân biệt sáu căn và sáu trần, vì có sự phân biệt sáu căn và sáu trần nên có xúc chạm, vì có xúc chạm nên có cảm thọ, vì có cảm thọ nên có tham ái, vì có tham ái nên có vướng mắc, vì có vướng mắc nên có sự hiện hữu, và từ đó có sự sinh tử, khổ đau và buồn phiền không thể tả xiết.”

“Cư sĩ ạ! Bạn đã quán niệm và nhận ra rằng mọi sự đều sinh khởi và không có cái gọi là tự tánh riêng biệt. Đó được gọi là phép quán niệm về KHÔNG, một phép quán niệm tấn giang tối thượng.”

Thực hiện đến đây, trưởng giả Cấp Cô Độc khóc, nước mắt tràn đầy. Đại đức A Nan hỏi ông:

“Cư sĩ, tại sao ông khóc? Thực tập không thành công sao? Ông có hối tiếc gì không?”

Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời:

“Thưa đại đức A Nan, con không có hối tiếc gì cả, con đã thực hiện thực tập rất thành công. Con khóc là vì con cảm động quá. Con đã có dịp phục vụ Phật và các bậc cao đức từ lâu nhưng chưa bao giờ được nghe một giáo pháp nào đẹp đến vậy, đặc biệt và quý giá như giáo pháp mà con được đại đức Xá Lợi Phất truyền dạy ngày hôm nay.”

Khi đó, đại đức A Nan nói với trưởng giả Cấp Cô Độc:

“Cư sĩ nên biết rằng giáo pháp này thường được nghe và học bởi các vị khất sĩ và nữ khất sĩ.”

Trưởng giả Cấp Cô Độc nói:

“Thưa đại đức A Nan, xin đại đức hãy báo cáo với Đức Thế Tôn để cùng các cư sĩ chúng con có cơ hội nghe những giáo pháp tuyệt vời như giáo pháp này. Có những người cư sĩ không thể nghe, hiểu và thực hành những giáo pháp như giáo pháp này, nhưng cũng có những người cư sĩ có khả năng nghe, hiểu và thực hành những giáo pháp thâm diệu ấy.”

Khi nghe và thực hành cùng hai vị, cư sĩ Cấp Cô Độc cảm thấy nhẹ nhàng và sảng khoái trong tâm hồn; ông đạt được tâm Vô Thượng. Đại đức Xá Lợi Phất và A Nan rời đi, và cư sĩ Cấp Cô Độc đã mãn đúc và đầu thai ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên.

Hồi hướng

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Bài kinh này ý nghĩa thâm sâu, công dụng thực tế, giúp ta không còn chấp vào tứ đại là ta, không chấp ngũ uẩn là ta, vượt thoát chấp ngã, ngã sở.

Khi bịnh, khi sắp lìa đời chúng ta quan sát thấu rõ như thật về thân, về ngũ uẩn như vậy thì sẽ an nhiên tự tại.

Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, bản dịch của HT. Nhất Hạnh.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Hành pháp thiện để an lạc ngay hiện tại và tốt đẹp trong tương lai

Phật giáo thường thức 22:00 30/11/2025

Cuộc đời vốn trôi qua rất nhanh, loay hoay thì tuổi già và cái chết ập đến ta chỉ còn lại nắm tro tàn. Rồi theo dòng nghiệp lực ta sẽ có kiếp sống mới, nhưng ở hình hài nào thì cũng phải là do tiền nghiệp thúc đẩy.

Liên hệ giữa nghiệp quá khứ và hiện tại với tinh tấn và trí tuệ

Phật giáo thường thức 21:00 30/11/2025

Đối với những chúng sinh còn lang thang trong vòng tử sinh luân hồi, nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại là những nhân chính trong việc tác thành hạnh phúc và khổ đau mà các chúng sinh ấy cảm thọ trong kiếp hiện tại. Những nhân khác như thời gian (kāla), nơi chốn (desa), v.v...là các nhân phụ.

Sống đúng với chính mình

Phật giáo thường thức 20:00 30/11/2025

Khi biết yêu thương và tôn trọng bản thân, ta mới đủ sức yêu thương người khác một cách trọn vẹn. Sống đúng với chính mình không phải là ích kỷ, mà là cách duy nhất để sống một cách chân thật.

Một đời sống có trí tuệ là luôn ý thức rõ về nhân và quả

Phật giáo thường thức 19:46 30/11/2025

Người không dốc sức dồn thời gian cho chuyện tu học thì sẽ bỏ lỡ 3 cơ hội này:

Xem thêm