Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ bảy, 12/11/2022, 08:55 AM

Phật giáo trong văn hoá “xứ Phù Tang”

Phật giáo có một sự đóng góp to lớn không chỉ đối với sự phát triển nghệ thuật ở Nhật Bản, mà còn đối với sự phát triển văn hóa ở hầu hết mọi phương diện. Sự thực, nếu không có Phật giáo, Nhật Bản không bao giờ đạt được nền văn minh như hiện nay.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-16

Quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản.

Từ sau công nguyên, đạo Phật đã vượt qua khỏi biên giới của triết lý truyền thống Ấn Độ và mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang nhiều nước ở Trung Nam Á và Đông Bắc Á. Nhật Bản cũng là một nước không nằm ngoài sự ảnh hưởng của đạo Phật.

Từ thế kỷ thứ III, Nhật Bản đã có những tiếp xúc với cô đồng bói toán và các thổ hào của các bộ tộc ở Trung Quốc. Vào khoảng đầu thế kỷ V, Nhật Bản bắt đầu tiến hành các cuộc xâm lược, cướp bóc và các thợ lành nghề là người Triều Tiên, Trung Quốc đã bị bắt về Nhật Bản. Nhiều người trong số tù binh đã trở thành người mang kỹ thuật mới về cho người Nhật, đồng thời họ cũng chính là người mang nền văn minh từ lục địa đến quần đảo Nhật Bản. Một trong số những tri thức đó là những tri thức về phật giáo.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-9a

Đạo phật chính thức được đón nhận ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI (năm 538 sau công nguyên). Cũng từ đó trở đi, Phật giáo đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng văn hoá xã hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên, đạo Phật ở Nhật Bản không được sao chép nguyên bản trực tiếp từ Ấn Độ mà đạo phật trước khi vào Nhật Bản đã được phát triển ở Trung Quốc và đôi chút biến đổi ở Triều Tiên. Đồng thời đạo phật khi du nhập vào nhật bản vô tình hay hữu ý đã được bản địa hoá cho phù hợp với trình độ nhận thức và với một số tín ngưỡng bản địa lợi dụng nó tạo điều kiện để đạo phật dễ thâm nhập vào quần chúng nhân dân Nhật Bản. Như vậy là có sự tác động qua lại giữa đạo phật và các giá trị truyền thống của người dân Nhật Bản. Đạo phật là một yếu tố kích thích các giá trị truyền thống phát triển và ngược lại.

Nhân tố tôn giáo và trí tuệ quan trọng nhất mà đạo phật đưa vào Nhật Bản chính là nguyên tắc siêu nghiệm và phủ nhận thế giới. Nguyên tắc này đại diện cho một xu hướng giá trị hoàn toàn mới, đó là một sự kiến giải không hề có trong tư tưởng tôn giáo vốn có của Nhật Bản. Trước khi có đạo phật du nhập vào và khi đạo phật vào Nhật Bản, những người phản đối cũng như những người ủng hộ đạo phật đều coi Phật tổ là Kami, một Kami từ nước ngoài tới. Ngay cả đạo phật thời kỳ đầu du nhập cũng bị coi như là một phương tiện nhằm thoả mãn những quan tâm của trần thế và các tượng Phật được mọi người thán phục chỉ vì vẻ đẹp tinh tế.

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về đạo phật Nhật Bản không có sự thống nhất về nguyên nhân làm cho đạo Phật có thể bén rễ vững chắc trong xã hội của Nhật Bản. Một số người cho rằng việc truyền bá đạo phật vào Nhật Bản là kết quả của sự bành trướng tư tưởng văn hoá Trung Hoa hơn là hệ quả của nhu cầu nội tại của nước Nhật. Một số người khác lại cho rằng đây chính là kết quả của sự phát triển lôgic của xã hội vì lúc đó xã hội Nhật Bản đang trong giai đoạn hình thành và phát triển chế độ phong kiến cho lên lúc này các nhà triết lý của đạo phật và Khổng giáo đã có những tư tưởng phù hợp với nhu cầu lúc đó là xây dựng một chế độ phong kiến trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều nằm trong tay Hoàng Đế chấm dứt phân tranh và thống nhất đất nước. Như vậy, phật giáo ít nhiều cũng có những ảnh hưởng đến sự phát triển trong buổi đầu của nền văn hoá nhật bản và sự phát triển của đất nước Nhật Bản.

Quá trình phát triển của Phật giáo Nhật Bản

Phật giáo bắt đầu được truyền vào Nhật Bản từ thời kể thế Thiên Hoàng (507 đến 531) nhưng phải đến thời thái tử Thánh Đức thì mới có những bước phát triển rộng rãi và truyền bá công khai. Dưới góc độ của lịch sử và dựa vào phương pháp phân kỳ Phật giáo Nhật Bản, có thể chia quá trình hoàn thành và phát triển Phật giáo của Nhật bản thành 3 thời kỳ chính:

Thời kỳ đầu (từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ VIII)

Đây là thời kỳ tiếp nhận Phật giáo hay còn gọi là thời kỳ “truyền bá”. Từ thời kỳ này, đạo Phật đã được coi là công cụ trực tiếp của công đình và một bộ phận tăng lữ, quý tộc Nhật Bản. Do đó, nó phát triển rất nhanh và mạnh mẽ. Trong thời gian này, tất cả có 6 giáo phái được thành lập.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-10

Trong quá trình phát triển Phật giáo ở giai đoạn này, thì người có công lớn nhất phải kể đến là hoàng thân Shotoku. Ông là người nhật đầu tiên thực sự hiểu được tư tưởng của đức phật và tin tưởng sâu sắc vào đạo Phật. Tháng 4 năm 12 Suy Cổ, thái tử Shotoku đã cho ban hàng hiến pháp 17 điều trong đó ông dùng tư tưởng Phật giáo để chỉ đaọ về tinh thần, lấy lý luận nho gia làm căn cứ chính trị và lấy nguyên tắc pháp gia làm phương pháp thi hành.

Điều thứ 2 trong hiến pháp ghi: “Thành kính đối với tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Đây là trung quy của tứ sinh, là cực tông của vạn quốc. Đời nào, người nào mà không theo pháp ấy, người ta ít lầm nỗi, tội ắc có thể cải tạo nếu không quy tam bảo lấy gì làm rõ thẳng cong. Như vậy, công dụng của quy tam bảo là có thể uốn thẳng thành cong. Con người ta hoặc giả hướng thiện, nếu giáo dục không đúng thì không ai coi thiện như nước chảy xuôi. Và phép giáo hóa gửi ở sự chỉ đạo tối cao của tín ngưỡng tam bảo với mục đích cao cả nhất của nhân gian. Ngay cả chúng sinh bốn loại nếu rời bỏ tam bảo thì cũng không còn cửa nào thoát khỏi bể khổ”. Qua đây ta có thể thấy được thái tử tôn sùng tam bảo sâu sắc biết nhường nào.

Trong thời gian thái tử Shotoku (574-662) cầm quyền đã có 46 ngôi chùa được xây dựng và có hơn 1376 tăng ni, phật tử tham gia. Đặc biệt là năm 645 khi “chiếu thư” đầu tiên về phát triển phật giáo được công bố thì phật giáo đã được phát triển nhanh chóng đến cuối thế kỷ thứ VII cả nước đã có hơn 540 ngôi chùa với hơn 3363 tăng ni và phật tử tham gia đạo Phật. Sau này người ta tôn sùng thái tử Shotoku là Thánh Đức đây là cách gọi tôn kính để ghi nhớ công đức lớn lao của ông.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-11-e1625915147624

Trong suốt các thế kỷ từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ VIII, nhờ vào sự ủng hộ của nhà nước mà đạo Phật đã phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng rộng lớn đến mọi tầng lớp nhân dân. Thời kỳ này có rất nhiều chùa, tự viện của đạo phật được xây dựng nhiều nghệ nhân đã tạc những bức tượng Phật tuyệt đẹp, một trong những tác phẩm tiêu biểu ở đền Todaiji thuộc Nara.

Người Nhật tin sùng đạo Phật, nhưng không vì vậy mà họ bỏ tín ngưỡng đối với các chư thần vốn có từ xưa của Nhật Bản. Họ đã không loại trừ truyền thống Shinto bản đại mà họ còn hướng tới sự hợp nhất một cách hài hoà giữa đạo phật và đạo Shinto. Họ đã thờ phật song song với thờ thần. Đặc biệt là một thánh tự được xây dựng trong khuôn viên của điện thờ Shinto.

Như vậy, mối quan hệ với các tôn giáo khác có tầm quan trọng trong việc xác định tương lai, tính chất thích nghi với các điều kiện sở tại cũng như sự chuyển hoá của đạo phật trong các tình huống cụ thể của đất nước N hật Bản. Đặc biệt là sự biến đổi của đạo Phật dưới hình thức “Zen” vào khoảng thế kỷ VII đã trở thành học thuyết của giới võ sĩ đạo.

Thời kỳ Nhật Bản hoá (từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ XIV)

Trong thời kỳ này sự hỗn dung giữa tư tưởng của đạo Phật và đạo Shinto đã được diễn đạt một cách có hệ thống bằng các giáo phái hỗn dung như Ryobu và Sanno của đạo Shinto. Nhưng đồng thời với xu hướng trên vẫn có sự tranh cãi giữa đạo Phật và đạo Shinto. Những người theo đạo Phật cho rằng các Kami của đạo Shinto là những biểu hiện thứ hai của đức Phật và Bồ tát, còn các người theo đạo Shinto thì lại cho rằng thực thể đầu tiên hay cái bản thể là do các Kami tạo lên và họ còn cho rằng các đức Phật và Bồ tát chỉ là sự biểu hiện của Kami mà thôi.

Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ IX đến thế kỷ X, Phật giáo dòng Tendai, sau khi đạt đến sự thịnh vượng đã có những ảnh hưởng tích cực đến hệ thống giáo dục của Nhật Bản. Và sau đó đã phân hoá với thần đạo. Cuối cùng thì giáo phái này đã tách ra thành các giáo phái: Tendai, Shugei, Shinsei, Dimon.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-12

Một bước phát triển quan trọng khác của đạo Phật, được đánh dấu bằng những phong trào tiến bộ của tôn giáo mới ở thời kỳ Kamakura (1193-1333). Về sau giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn “quần chúng hoá” hay là “sự hình thành của đạo Phật theo kiểu Nhật Bản”. Các nhà sư Nhật Bản được phép lập hạnh phúc gia đình với tư tưởng Phật ở tâm và mọi người đều có thể trở thành Phật. Trong thời kỳ này đã xuất hiện một số tư tưởng gia của đạo Phật như: Honen, Shinran, Dogen và Nichiren. Đây chính là 4 vị đã sáng lập ra bốn giáo phái mới của đạo phật tương ứng là: Jodshu, Jodo, Shinshu, Thiền tông và Hokke. Bốn giáo phái này, đã tạo nên những đóng góp vĩ đại không chỉ cho lịch sử phật giáo Nhật Bản mà còn cho lịch sử tư tưởng Nhật Bản nói chung.

Chẳng hạn, Honen (1133 -1212) đã tìm ra con đường giác ngộ đạo Phật mà mọi người đều có thể hiểu được rõ ràng. Ông nhận thấy có thể cứu vớt được linh hồn khi người ta có quan niệm Nenbutsu tức là Namu Amida Butsu nghĩa là cầu khấn Adiđà hay Nam mô A di đà phật. A di đà là vị Phật của cuộc sống, là ánh sáng vô biên. Với lòng tin này vào a di đà và niềm Tịnh độ (Jodo), Honen đã thành lập ra giáo phái Jodo hay còn gọi là Tịnh độ tông.

Một trong những môn đệ của ông là Shinran (1173-1262), người ta đã tiến xa hơn trong việc nhấn mạnh tới lòng tin tuyệt đối vào quyền lực cứu vớt của adiđà và hệ quả tất yếu của điều đó. Shinran gạt bỏ tất cả lòng tin của mình vào bất kỳ cái gì khác trên thế giới, kể cả vào khả năng của cá nhân mình. Ông đã dẫn cả tư tưởng của sư phụ mình và kết luận một cách logic rằng: Con người tụng Nenbutsu và tin vào adiđà đều không dựa vào bất kỳ khả năng hay quyền lực nào của con người mà chỉ do đức phật cho phép anh ta làm được như vậy. Ông nói: “Dù cho người thiện có thể được tái sinh ở niềm tịnh độ thì cái ác lại càng nhiều thêm”, đây là cách diễn đạt hùng hồn về niềm tin chủ yếu dựa vào sự phủ nhận hoàn toàn của bản thân mình. Ngoài ra, ông còn bắc bỏ tổ chức tự viện truyền thống, ông cho rằng cái đó là không cần thiết nữa. Ông còn tán thành quan niệm các thầy tu có thể lấy vợ, sinh con tức là sống một cuộc sống mộ đạo giữa những người bình thường và có những quan tâm đến truyện thế tục.

Dogen (1200 -1253) chính là người đã sang Trung Quốc để tìm lời dạy đích thực của đức Phật, và ông đã tin vào cách tu luyện tạo thiền của đức Phật chính là phương pháp đã giúp đức phật được giác ngộ. Khác hẳn với Shinran và Dogen. Đã nhấn mạnh đến đời sống tu viện ẩn dật, khổ hạnh và kỷ luật nhằm mục đích cố gắng giữ gìn một cuộc sống tôn giáo. Tuy nhiên, ông đã đề cao sự siêu nghiệm và đơn giản hoá đời sống tôn giáo.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-13-e1625915569355

Nichiren (1222-1282) sau một thời gian dài tìm tòi, ông đã tin rằng Kinh Liên Hoa (Myohorengekyo) có lời dạy cuối cùng của đức Phật liên quan đến sự giải thoát. Vì thế, ông đã dạy cho các tín đồ của mình tụng kinh liên hoa, ông tin rằng quyền lực siêu phàm của kinh này sẽ dẫn đến sự giác ngộ. Lập trường của Nichiren được coi là dân tộc chủ nghĩa, xuất phát từ sức mạnh siêu nhiên, được áp dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sau này giáo phái của ông được chia thành nhiều giáo phái phụ và trở thành nguồn gốc của nhiều tôn giáo mới.

Tất cả các nhà lãnh đạo tôn giáo thời kỳ Kamakura, tuy khác nhau về cách tiếp cận với chân lý của đạo Phật nhưng lại giống nhau trong việc thừa nhận ý nghĩa của cái siêu nghiệm và chống lại các nhà lãnh đạo của các đạo Phật trước đây. Những tư tưởng và hoạt động của họ đều tạo nên sự thức tỉnh tôn giáo, thậm chí nó còn tạo nên một môi trường giống như một cuộc cải cách tôn giáo. Do đó, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, đạo Phật đã thấm sâu vào nhân dân và trở thành phong trào quần chúng.

Thời kỳ tồn tại (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX)

Dưới chế độ phong kiến Nhật Bản, những ảnh hưởng của đạo Phật đã bị thu hẹp mậc dù vẫn còn sức mạnh tiềm tàng trong dân chúng, nguyên nhân là do chính sách hai mặt của chế độ Mạc phủ Tokuga (1603-1867) là vừa lợi dụng, vừa kiềm chế sự phát triển của đạo Phật. Sau khi cách mạng duy tân diễn ra thì tình hình cũng không sáng sủa lên. Và chỉ đến khi Chính phủ tuyên bố ban hành Hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng thì đạo Phật mới được khôi phục địa vị hợp pháp của mình và phát triển lớn mạnh như ngày nay.

Những đặc trưng Phật giáo ở Nhật Bản

Nét đặc trưng đầu tiên của Phật giáo Nhật Bản đó là tính dân tộc trên cơ sở tổng hợp các yếu tố tôn giáo ngoại lai và bản địa. Về giáo lý, Phật giáo Nhật Bản dựa vào thuyết Thần – Phật hỗn hợp và Khổng giáo. Về niềm tin, Phật giáo Nhật Bản là sự hòa hợp giữa niềm tin các vị thần bản địa của Thần đạo Nhật Bản và niềm tin vào hiện thân của Phật và Bồ Tát. Phật giáo Nhật Bản coi các vị Bồ Tát không phải là các đức Phật được du nhập về mà đó chính là các vị Thần của dân tộc mình. Phật giáo ở “xứ Phù Tang” có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố Nhật Bản với các yếu tố ngoại lai như: Phật giáo Triều Tiên, Trung Quốc, nhưng lại mang tính đề cao dân tộc Nhật Bản. Đó là quá trình bản địa hóa một cách sáng tạo nhằm tôn vinh nét đẹp tinh thần và vật chất của người Nhật. Điểm đặc biệt là Phật giáo ở Nhật Bản coi nghi lễ thờ cúng Thái tử (Taishi) ngang với nghi lễ thờ cúng Thích Ca Mâu Ni (Thái tử Tất Đạt Đa) và Di Lặc (Thái tử Ajita). Bên cạnh đó, các Phật tử Nhật Bản rất tôn kính Thái tử Shotuku như hiện thân đức Phật tổ ở Nhật Bản mặc dù ngài chỉ là một cư sĩ.

Phật giáo Nhật Bản có tính thế tục sâu sắc. “Thế tục” là tập tục ở đời, là đời sống trần tục, đối lập với đời sống tu hành theo quan điểm của tôn giáo. Ở đây, thế tục được hiểu theo nghĩa đời sống trần tục. Như vậy, thế tục hóa chính là việc đưa tôn giáo vào đời sống thường ngày, thật sự thể hiện tinh thần gắn bó với cuộc sống con người, biến những giáo lý khô cứng thành những bài học sống động để có thể áp dụng vào việc xây dựng một xã hội hiền thiện.

Thế tục hóa xuất hiện trong Phật giáo Ấn Độ với triết lý Phật tại tâm – là triết lý có ý nghĩa rất cao đẹp và sâu xa. Phật chính ở cái tâm, ở lòng lương thiện của mỗi người, từ ngay trong gia đình của mình đến các mối quan hệ xã hội, thể hiện chủ yếu thông qua chân lý về con đường chấm dứt khổ Bát chính đạo bao gồm: chính ngữ, chính kiến, chính tư duy, chính nghiệp, chính mệnh, chính định, chính tinh tấn, chính niệm. Đây là con đường trung đạo vì tránh hai thái cực chạy theo khoái lạc tầm thường và khổ hạnh ép xác. Bát chính đạo là con đường đúng đắn dẫn đến thực chứng chân lý tối hậu, dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình an nhờ sự hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và trí tuệ.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-14

Tính thế tục của Phật giáo Nhật Bản thể hiện trước hết là nhiều giáo lý, nghi lễ Phật giáo đã trở thành phong tục, tập quán, thành nếp sống của quảng đại nhân dân. Các nghi lễ Phật giáo Nhật Bản ngày nay chủ yếu được thể hiện bằng các thói quen xã hội như phong tục, tập quán, lễ hội… Các Phật tử ở Nhật Bản không chú ý quá nhiều đến các giáo lý của Phật giáo mà quan tâm đến sự phổ độ của đức Phật nhiều hơn. Điều này cho thấy ngay trong động cơ, cách thức du nhập Phật giáo đã được thế tục hóa. Thế tục hóa Phật giáo ở Nhật Bản còn thể hiện qua hành Thiền. Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm…Thiền cũng có thể được nhìn dưới một góc độ gần gũi hơn là trạng thái của tâm khi biết tất cả sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh mà không có ý niệm phân biệt so sánh, không bị dính mắc đối với mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc đời, không động tâm đối với tất cả các pháp thế gian. Thiền trở thành cách thức ứng xử trong đời sống xã hội, tư tưởng, đạo đức, lối sống, hoạt động chính trị, kinh doanh… Ở Nhật Bản Phật giáo đã trở thành công cụ đạo đức để ứng xử trong xã hội, thể hiện sâu sắc tính thế tục hóa ở trong tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.

Phật giáo Nhật Bản đa dạng tông phái, các Phật tử các tông phái thường tu theo sơn môn. Các tông phái Phật giáo ở Nhật Bản hiện nay bao gồm: Hòa tông, Thánh Đức Tông, Tam Luận tông, Thành Thục tông, Cụ Xá tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Thiên Thai tông, Chân Ngôn tông, Tịnh Thổ tông, Thiền tông, Nhật Liên tông.

Hai phái Thiên Thai tông và Nhật Liên tông chiếm tỉ lệ cao nhất, 60% Phật tử Nhật Bản là theo hai phái này. Ngoài những tông phái Phật giáo ở trên, ở Nhật Bản còn có các tông phái Phật giáo khác. Nhật Bản là quốc gia đa tôn giáo, cùng với sự đa dạng về các tông phái của đạo Phật cũng như các tôn giáo khác đã tạo nên một bức tranh tôn giáo đa sắc màu, mang đặc trưng riêng của “xứ sở hoa anh đào”.

Phật giáo Nhật Bản mang tính nhân đạo hiện thực. Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, Phật giáo đã đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức con người và hướng tới một xã hội bác ái. Đạo Phật đã tạo dựng cho các tín đồ, Phật tử một niềm tin vào luật nhân quả, vào vô thường, vô ngã… Niềm tin ấy sẽ chi phối ý thức đạo đức của con người, không chỉ ảnh hưởng đối với Phật tử mà còn lan toả và tác động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó tạo ra cho con người một sức mạnh tinh thần để vượt lên mọi cám dỗ vật chất, những trắc trở trong cuộc sống, hướng họ vào một lý tưởng sống tốt đẹp, vị tha. Tình thương và lòng nhân ái giúp hạn chế bớt tính ích kỷ, từ bỏ tham, sân, si cốt lõi của những thói xấu, những mâu thuẫn, xung đột và bạo hành trong xã hội. Với triết lý đó, Phật giáo Nhật Bản đã tiếp thu và phát huy tinh thần hướng thiện của con người nhưng theo cách riêng của dân tộc mình. Các Phật tử thiên về thế giới thực tại trực tiếp và cụ thể của con người như được may mắn, giàu có, hạnh phúc… Ở Nhật Bản thường kết hợp các khái niệm thuộc di sản Thần đạo truyền thống với các trải nghiệm bản thân về Phật giáo để hình thành nên Phật giáo bản địa Nhật Bản, thể hiện tình thương, lòng từ bi, đặc biệt là đối với những tầng lớp xã hội bị chà đạp, bị áp bức.

Tính nhân đạo hiện thực của Phật giáo Nhật Bản còn được thể hiện ở khuynh hướng thẩm mỹ, tình yêu và sự hòa đồng với thiên nhiên cụ thể như trong nghệ thuật trà đạo, nghệ thuật này thấm nhuần tinh thần của Thiền tông với vai trò của các vị Thiền sư và mang một triết lý Thiền hay chính là triết lý nhân sinh cao đẹp. Nghi thức trà đạo cùng với sự sùng kính thiêng liêng ở Nhật Bản đã mang lại cảm giác như đang được hành hương trở về nơi đất Phật. Trà đạo đã khơi nguồn cho các tín đồ nguồn cảm hứng về sự thanh khiết, sự nhịp nhàng, sự huyền bí của lòng từ ái tương thân, sự cảm thông chủ nghĩa lãng mạn của trật tự xã hội. Hay như ngay trong nghệ thuật Bonsai, người Nhật đã kết hợp việc trồng cây và thiền của Phật giáo để tạo nên những cây có tạo hình đẹp, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và nghệ thuật… Nghệ thuật Bonsai mang đến những bài học kinh nghiệm, triết lý nhân sinh và nhân văn sâu sắc, giúp thanh lọc tâm hồn, tâm hướng đến giá trị đạo đức sống. Môn nghệ thuật này còn giúp đưa con người gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên hơn.

Tham gia vào việc hình thành tinh thần Nhật Bản, với ưu thế là một tôn giáo có bề dày lịch sử, có số lượng tín đồ đông đảo, lại thêm tính chất thế tục ngày càng tăng, Phật giáo Nhật Bản đảm nhận vai trò thế giới quan, nhân sinh quan trong quá trình hình thành và phát triển xã hội Nhật Bản. Góp phần hình thành và điều chỉnh ý thức về quan hệ giao tiếp trong cuộc sống. Ở Nhật Bản, Phật giáo có rất nhiều đặc trưng mang sắc thái dân tộc độc đáo: tính dân tộc, tính thế tục, đa dạng tông phái và tính nhân đạo. Điều này đã góp phần tạo nên nét khác biệt của Phật giáo Nhật Bản so với Phật giáo ở các quốc gia trên thế giới.

Một Phật giáo không có tăng già

Từ Đông Nam Á cho đến Đông Bắc Á, có lẽ Nhật Bản là quốc gia duy nhất không có một giáo đoàn những người xuất gia. Khác với những vùng theo Nam truyền hay Bắc truyền, nơi tăng lữ xuất gia được tổ chức theo giới luật, ta có thể khẳng định rằng “ăn thịt lấy vợ” (Nikujiki saitai: nhục thực thê đới) là một đặc điểm của Phật giáo Nhật Bản.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-2-e1625913059710

Lý do việc tăng lữ Nhật Bản “ăn thịt, lấy vợ” là vì ở quốc gia này người ta không phân biệt rõ ràng 2 quy chế “xuất gia” với “tại gia”. Ở Thái (theo Nam truyền) chẳng hạn, rõ ràng là những người xuất gia đã tổ chức thành tăng già vững mạnh. Đoàn thể Phật giáo chính là họ và người tại gia chỉ đóng vai trò hổ trợ. Trong trường hợp đó quyền uy của người xuất gia rất cao. Họ có đến 227 điều cấm kỵ và nhân vì trong đó tình dục được xem như một tội trọng nên việc lấy vợ là điều không thể dung thứ. Nam truyền không ngăn cấm việc ăn thịt một cách rõ ràng vì người đi tu bắt buộc phải nhận và ăn tất cả của bố thí. Có điều là với tư cách nhà tu hành, người xuất gia có bổn phận làm gương cho những kẻ tại gia nên tăng lữ Thái Lan phải cố tránh việc ấy. Đến khi Phật giáo Đại thừa ra đời, Phật giáo bao gồm cả những người tại gia. Kẻ xuất gia đóng vai trò người cứu độ và họ cũng phải giữ một số giới luật của hệ thống Bắc truyền. Tuy có chậm trễ nhưng hệ thống giới luật ở Nhật Bản đã được hình thành từ khi tăng Ganjin (Giám Chân, 688-763) từ Trung Quốc vượt biển sang (năm 752). Thế nhưng đến thời Saichô (Tối Trừng, 767-822) và các đệ tử của ông trên ngọn Hieizan (Tỉ Duệ Sơn, vùng Kyôto) thì giới luật ấy đã có phần thay đổi và sau đó, vì nhuốm màu sắc của tôn giáo nguyên thủy bản địa, nó tỏ ra phóng khoáng hơn theo đà xâm nhập của các nhà ẩn tu khổ hạnh sống trong núi có tên là “Hijiri” (thánh, người giữ lửa thiêng). Những người này chỉ đi tu một khoảng thời gian trong năm, ngoài lúc đó, họ sinh hoạt bình thường nên việc lấy vợ, đẻ con, ăn thịt… trên nguyên tắc không có gì phải chú ý. Những Hijiri từ khi biết đến Phật giáo đã tiếp thu tôn giáo này và trở thành tín đồ Phật giáo. Nói cách khác, họ đã ghép yếu tố bản địa vào trong tôn giáo ngoại lai và đồng hóa với nó. Theo Yanagita Kunio, không phải Shinran (Thân Loan, 1173-1262) đã đề ra tư tưởng “đi tu ăn thịt lấy vợ” vì trước đó 170 năm (1004), đã có bằng chứng là các Zokuhijiri (tục thánh) từng sinh hoạt theo kiểu đó rồi! Với những người này, cái chính yếu là phát tâm (Hosshin) và đạo tâm (Dôshin) tức là tôn trọng ý chí con người chứ không phải giới luật. Nếu muốn giữ giới, có thể giữ trong một thời gian nào đó, khi cần sự thanh tĩnh mà thôi. Đặc trưng này cũng thấy nơi Thần đạo và nhiều hình thức tôn giáo Nhật Bản. Phải chăng theo cách suy nghĩ của người Nhật thì Thần Phật chỉ giáng lâm trong dịp lễ nên người đại diện tiếp rước các vị ấy chỉ cần chay tịnh vào lúc đó. Chẳng những có quyền ăn thịt lấy vợ, tăng còn có thể “phá giới” (Hakai), nghĩa là rời bỏ tập thể của mình ngay cả nhiều phen nếu người ấy vì lòng cầu đạo (Gudô) mà muốn đi tìm một hình thức tu tập thích hợp hơn cho mình. Điều đó giống như xuất gia thêm một hay nhiều lần nữa. Người đi tu, lúc đó sẽ thuộc về một không gian đặc biệt (biệt sở: Bessho), nơi mà quyền lực thế tục lẫn thần quyền của các đại tự viện đều không thể chạm tới.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-1-e1625912950422

Ý tưởng kẻ phàm phu (Bonpu) chỉ cần xưng danh niệm Phật để bày tỏ ý chí quy y (kie), tuyệt đối dựa vào tha lực của Amidabutsu (A Di Đà Phật) đã được Honen (Pháp Nhiên) – một thanh tăng (xin đừng đọc là thánh tăng) – đưa ra khi ông muốn đại chúng hóa Phật giáo. Shinran, một tục tăng và cũng là người đệ tử ngoan cường của ông, đã đi tiếp con đường đó. Sau bao gian khổ, chịu đàn áp bách hại, Shinran đã thành công trong việc thành lập một giáo đoàn Tịnh độ Chân tông “phi tăng phi tục”. Họ gọi người điều hành là Kebozu (sư để tóc), gọi nơi tụ họp là Dojo (đạo trường), công khai chống đối những thế lực đã tước đoạt quyền tu hành và lưu đày mình. Năm 1872 (Meiji 5), với chính sách mới, việc ăn thịt, lấy vợ, để tóc đã được nhà nước công nhận bằng văn bản và tăng lữ đã trở thành một nghề. Thế nhưng việc này chỉ chứng tỏ nó là hậu quả của một chính sách quản lý chùa chiền, với mục đích đặt Phật giáo bên dưới Thần đạo, nhằm biến Thần đạo thành lá bài của chủ nghĩa quốc túy (Ultra-nationalism). Văn bản hành chính này bị phê phán là đã phát xuất từ một sự hiểu biết sai lệch lịch sử tôn giáo Nhật Bản.

Tượng Phật và văn hóa nguyên thủy

Tuy tượng Phật chưa ra đời vào giai đoạn Thích Ca thuyết pháp, nhu cầu đứng trước hình ảnh của Phật để tập trung suy tư từ lâu đã tiềm tàng nơi giáo đồ nói chung. Người Nhật cũng theo con đường đó nhưng phải nói họ đã uốn nắn cách chế tạo tượng Phật theo văn hóa dân gian của nước mình. Các tượng Phật người Nhật yêu chuộng thường nhỏ, làm bằng gỗ và không chỉ biểu lộ sự từ bi với dáng dấp trầm tư mà có khi còn giận dữ, dọa nạt.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-7

Tượng ở các chùa nổi tiếng như Horyuuji, Zenkoji hay Sensoji có kích thước trung bình cỡ 30-40cm, cỡ bức tượng Thích Ca đản sinh mà họ nhận được đầu tiên từ vua nước Kudara. Có lẽ người Nhật xem Phật giống như những vị thần của Thần đạo nhưng là “man thần” bởi vì đã đến từ một đất nước xa lạ. Những cái tượng Phật tuy bé nhỏ xem ra phù hợp với văn hóa của họ vốn trọng những nhân vật và đồ vật có hình thù tí hon. Cứ lấy hình ảnh những nhân vật của cổ tích và truyền thuyết Nhật Bản như: Issun Boshi, Momotaro, Uriko-hime hay Kaguya-hime… Tất cả – nam cũng như nữ – đều có thân hình bé nhỏ.

Sau đó là đặc điểm các tượng Phật ở Nhật thường được tạc bằng gỗ theo kiểu Ichibokuzukuri – 木造りnghĩa là đẽo một thân cây thành tượng. Giải thích về điều này, người ta cho rằng nó đến từ tín ngưỡng nguyên thủy xem chư thần thường giáng lâm và nương tựa vào một vật thể, có khi là thân cây nhất là cây quí như bạch đàn (khái niệm “linh mộc” đã có ở Nhật trước khi Phật giáo truyền đến). Lối điêu khắc này về mặt kỹ thuật và mỹ thuật còn có ưu điểm là giúp người tạc tượng diễn tả được những đường nét mềm mại và tinh tế hơn là trên đá hay kim loại.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-6

Ngoài sự bé nhỏ, tượng Phật không phải lúc nào cũng biểu lộ nét từ bi. Tượng Fudo Myoo (Bất Động Minh Vương, Âryâchalanâtha) chẳng hạn là môt tượng với sắc mặt giận dữ. Vì người ta thường thấy chúng được đặt ở vùng Tôkyô ở miền Đông nên mới có kiểu nói “Đông Bất Động, Tây Quan Âm”. Tượng Phật ở Nhật không chỉ đoan chính, hiền hậu mà còn xấu xí, quái dị (mắt lé, răng nanh, thân thể phì nộn, da thịt đỏ cháy) và biểu lộ sự thịnh nộ. Dạng tướng này là để đối phó với lòng ác độc vốn cũng nằm trong bản chất con người. Nhiều người cho rằng những vị thần xấu xí, hung tợn đó đã đến Nhật cùng với Mật tông và tăng Kuukai (Không Hải, 774-835) nhưng không ai giải thích được lý do tại sao người Nhật yêu chuộng họ. Chỉ có thể suy luận rằng trước khi Phật giáo đến nơi, đã có truyền thống tín ngưỡng thô sơ của người bản xứ sùng kính và sợ hãi các vị thần gieo tai ách.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-8

Kannon (Quan Âm, Kuan-Yin), ngược lại, là một vị Phật tượng trưng cho từ tâm, biết nghe tiếng kêu cứu của con người mà nghĩ ra cách giúp đỡ họ trong những tình huống khó khăn mà họ gặp phải. Tín ngưỡng Quan Âm rất phổ biến ở Nhật Bản nhưng phải nói là – cũng như Địa Tạng (Jizo) và Bất Động (Fudo) – Quan Âm Nhật Bản là một sự kết họp tính cứu tế, giải nạn của Quan Âm truyền thống với tính phồn thực thấy nơi Nữ thần đất nước hang động trong tín ngưỡng dân gian bản địa, tượng trưng cho người mẹ (mẫu thần). Ngoài việc cứu vớt con người khỏi “thất nạn” (Shichinan, bảy loại tai ương), Quan Âm Nhật Bản còn là vị thần se duyên và phụ sản nữa. Như thế, tín ngưỡng Quan Âm ở Nhật là một biến hình của tín ngưỡng dân gian được nhìn dưới lăng kính Phật giáo.

Thần là Phật, Phật cũng là Thần

Đầu tiên, khi tiếp thu Phật giáo, vì sợ chư thần sở tại không bằng lòng mà gieo tai họa, người Nhật đã tự vỗ về mình rằng Phật là những vị thần như chư thần sở tại nhưng chỉ có chỗ khác là đến từ nước ngoài. Dưới thời Kamakura, sự phát triển của Phật giáo cũng ảnh hưởng đến Shintô (Thần đạo). Thần quan ở đền Ise (Ise Gekuu: Y Thế ngoại cung) tên là Watarai Ieyuki đã lập ra Ise shintô (Y Thế thần đạo). Lý luận của ông có tên là Shinpon Butsujaku setsu (Thần bản Phật tích thuyết). Còn gọi là thuyết Hanhonji suijaku. Ý nói “Thần là chính, Phật chỉ là hình ảnh giả mà thần mượn tạm để hiện xuống trần gian”. Nó diễn dịch một cách trái ngược lại lý luận Honji suijaku setsu (Bản địa thùy tích thuyết) của thời Heian xem “thần Phật Bản là Phật hay bồ tát bản địa. Phật mượn hình ảnh thần để cứu độ chúng sinh”. Tuy nhiên cả hai đều có ý xem thần Phật đều là một (Shinbutsu dôtai, Thần Phật đồng thể). Sự kết hợp đầy bao dung này (Shinbutsu ipponron, Thần Phật nhất bản luận) đã được duy trì một cách khéo léo bởi những nhà lãnh đạo tinh thần trải qua nhiều thế kỷ. Một ngôi đền Thần đạo có thể được đặt cạnh một ngôi chùa (như chùa Rinnôji đối với đền Tôshôguu ở Nikkô) và ta có thể trưng ra vô số ví dụ tương tự. Trong đền thần cũng có chỗ dành để đặt khám thờ Phật và bày những tạng kinh Phật dù chúng chỉ được nhắc đến bằng những cái tên gọi đặc biệt. Và như thế, cho đến gần đây, khi nguyện cầu điều gì, người Nhật vẫn khấn một lúc cả Thần lẫn Phật (Kamisama! Hotokesama!). Ngay cả việc một Phật tử cầu…. thần cho mình mau thành chánh quả cũng là điều được xem như thỏa đáng. Sự hòa hợp quí giá đó đã giữ cho Nhật Bản giữ cái thế thăng bằng trong đời sống tâm linh cho đến khi những phần tử quốc gia quá khích thời Meiji dấy lên phong trào “bài Phật khí Thích” Haibutsu kishaku (còn gọi là phế Phật hủy Thích), đập chùa phá tượng để đưa đến những kết quả nguy hại khôn lường.

Vai trò của Phật giáo trong nền văn hoá Nhật Bản

Hơn 1000 năm tồn tại, Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Nhật Bản (ở cả 2 dạng văn hóa vật thể và phi vật thể) và được kết tinh sâu sắc trong nhân cách con người.

Có thể nói, mọi dân tộc trên thế giới đều có các lễ hội cổ truyền và những lễ hội đó là nơi giao lưu giữa những giá trị văn hóa truyền thống, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Ở Nhật Bản lễ hội cũng mang những đặc trưng văn hóa dân tộc. Có thể thấy nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng đã được biến đổi cho phù hợp với đặc điểm lịch sử và văn hóa của người Nhật. Khi theo dõi từng lễ hội hàng năm, ta sẽ thấy văn hóa Nhật Bản thấm đậm màu sắc của đạo Shintô, đồng thời lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ đạo Phật. Ở Nhật Bản vẫn lưu truyền truyền thống hòa hợp tâm linh của con người đối với Thần, Phật và lòng cảm tạ những ưu đãi mà thiên nhiên ban tặng.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-5a

Trong các loại hình nghệ thuật như điêu khắc, kiến trúc, hội họa, ảnh hưởng của Phật giáo cũng rất sâu đậm. Dưới sự chi phối của thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo, văn hóa Nhật Bản đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ vào thời kì văn hóa Asuka (552 – 645), khi nghệ thuật được hoàng gia phát triển. Bằng chứng là hàng loạt ngôi chùa được xây dựng, trong đó có chùa Pháp Long (Horyuji) được xây dựng năm 607 tại tỉnh Nara, chánh điện và tháp 5 tầng được xem như kiến trúc bằng gỗ vào loại cổ nhất tổn tại cho đến ngày nay trên thế giới. Văn hóa cuối Nara (710-794) là thời kì hoàng kim của đạo Phật và nghệ thuật tạc tượng Phật ở Nhật Bản. Nghệ thuật này phản ánh một phong cách hiện thực lớn kết hợp với sự thanh thản hiếm có. Rất nhiều chùa chiền được xây dựng, mang bóng dáng tráng lệ của lục địa, trong đó có đại sảnh chùa Todai ở Nara, nơi đặt tượng Daibutsu (Đại bụt), công trình gỗ lớn nhất thế giới.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-3a

Trong các thời kỳ tiếp theo, Phật giáo cũng tạo được những ảnh hưởng đáng kể của mình, làm cho phong cách nghệ thuật Nhật Bản kết tinh được tính trang nghiêm và sự uy nghi với những đặc trưng được lý tưởng hóa, giữa sự duyên dáng đầy khí lực với sự thanh thản, giữa tính thực tế và sự tao nhã. Vào thời Kamakura (1192-1537), sự xâm nhập của Thiền tông vào Nhật Bản đã làm cho kiến trúc chùa chiền nhiều tầng phát triển, như Chùa Vàng (Kinkakuji) và Chùa Bạc (Ginkakuji) ở Kyoto. Phật giáo đã thực hiện một sự hỗn dung với Thần đạo không chỉ trong tâm thức mà còn cả trong nghệ thuật.

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-3-e1625913476283

Không dừng lại ở đấy, ảnh hưởng của Phật giáo còn lan tỏa vào trong lĩnh vực ẩm thực và nâng nó lên hàng một nghệ thuật với một phong cách rất đặc trưng. Nói đến Nhật Bản không ai không nhớ đến một thứ trà trở thành “Trà đạo” cực kì nổi tiếng và mang màu sắc của Thiền (làm trong sạch tâm hổn bằng cách hòa mình với thiên nhiên, tinh thần thật sự của nghi thức dùng trà là điềm tĩnh, chất phác, phong nhã và tiết kiệm tối đa các động tác… thể hiện tính thẩm mĩ của cái đơn giản khắc khổ và cái nghèo tao nhã), hoặc cội nguổn của nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản là nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỷ VI…

Ngay từ những ngày đầu các chùa viện Phật giáo đã đóng vai trò như là những cơ sở giáo dục. Cho đến năm Chiêu Hòa 42, Phật giáo Nhật Bản đã có 9 trường tiểu học, 51 trường trung học, 13 trường cao đẳng, 41 trường đại học ngắn hạn và 24 trường đại học. Còn số liệu mới đây của Tịnh Độ tông (một trong hơn 10 tông phái lớn nhất ở Nhật Bản hiện nay) đăng trong cuốn danh bạ tự viện, số phát hành năm 1998 thì riêng Tịnh Độ tông đã có tới 6 trường đại học, 4 trường đại học ngắn hạn, 16 trường cao đẳng, 10 trung học, 2 tiểu học…

phat-giao-trong-van-hoa-nhat-ban-4-e1625913684493

Chỉ tính riêng từ năm Minh Trị 21 (Meiji, 1888) đến năm Chiêu Hòa 42 (Showa, 1967), trong 79 năm Phật giáo Nhật Bản đã cho ra đời 276 tiến sĩ văn học, (nghiên cứu Phật giáo), chỉ tính riêng sau chiến tranh thế giới II đã có tới 179 tiến sĩ. Con số thạc sĩ và học sĩ có thể phải “chở bằng xe đong bằng hộc””. Về sự nghiệp xã hội, có 116 viện dưỡng lão Phật giáo, 13 viện cứu hộ, 26 viện chữa bệnh bảo hộ, 3 viện tàn phế, 16 sở thụ sản… Về phương diện con người, trong tác phẩm nổi tiếng thế giới của Lee O Young Người Nhật Bản với chí hướng thu nhỏ, đã viết: “Những người Nhật đã tạo ra những vườn đá đẹp nhất làm cho mọi người trên thế giới đổng cảm sâu sắc, đã sinh ra nền văn hóa lặng lẽ thanh khiết của phòng trà, dù rằng có sự giết chóc của xã hội võ sĩ đạo đã rửa lịch sử bằng máu, nhưng họ đã tạo ra nền văn hóa rất đẹp đủ để chuộc lại những cái đó… Những người Nhật đó chẳng lẽ chỉ có thể được ghi nhớ bằng những nhãn hiệu hàng hóa điện tử trong 4 tỉ người thôi hay sao?”. Cũng Lee O Young cho rằng: “Tuy cũng là đạo Phật, song, trong khi phái Thiên Thai của Trung Quốc coi trọng cái “lý” (có thể hiểu là trọng những điều trừu tượng, xa rời những nhu cầu thực tế của cuộc sống) thì giáo phái Thiên Thai của Nhật Bản lại nhấn mạnh cái “sự” (có thể hiểu là trọng những nhu cầu hay hiệu quả thực tế). Trong cái thế giới không coi trọng cái “lý”, thế giới không có tư tưởng thì chỉ có “chủ nghĩa tiện nghi mới là thước đo của hành động”.

Trong điều kiện xã hội hiện nay – một xã hội mà guổng máy công nghiệp cực kì hiện đại đang đẩy con người càng ngày càng dường như xa lạ với bản chất của mình (với tính cách là một sinh vật có cảm xúc) thì tổn tại của Phật giáo càng có những hợp lý nhất định. Nó giúp con người khi bước ra khỏi một quy trình sản xuất đơn điệu và căng thẳng sẽ tìm thấy một khoảng nhỏ cảm xúc được hổi phục để rổi ngày mai, ngày kia… lại tiếp tục dấn thân vào guổng máy đó. Có lẽ vì thế, khác với người phương Tây khi công nghiệp và khoa học phát triển, niềm tin tôn giáo theo kiểu truyền thống dường như ít đậm đặc hơn thì ở người Nhật có lẽ biểu hiện lại khác: họ vẫn giữ được những tín ngưỡng cổ truyền, vẫn duy trì được nhiều lễ hội mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống. Trong từng con người Nhật Bản bên cạnh hành trang tri thức và kỹ năng lao động hiện đại, vẫn tồn tại những khác biệt rất căn bản khi họ đứng cạnh người Châu Âu hay Châu Mỹ. Để chỉ ra những ảnh hưởng của Phật giáo đến con người và xã hội Nhật Bản hiện đại là công việc còn phải tiếp tục, song, có thể khẳng định được rằng: có được nước Nhật, có được con người Nhật Bản như ngày nay, Phật giáo đã có một phần can dự và nhờ điều đó mà mặc dù hiện đại, nước Nhật vẫn giữ được hình ảnh đẹp đẽ và hùng tráng của ngọn núi Fuji thuở xa xưa, cũng như giữ được sự cảm nhận tinh tế của con người trong đời sống tình cảm khi giao tiếp với thiên nhiên. Có lẽ vai trò của Phật giáo đối với con người và văn hóa của Nhật Bản là ở đó.

Để hiểu rõ hơn về lịch sử Phật giáo cũng như vai trò của tôn giáo này đối với văn hoá Nhật Bản, du khách có thể thực hiện chuyến hành hương đến “xứ sở mặt trời mọc” để khám phá các công trình, kiến trúc và những địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng nơi đây. Từ đó du khách sẽ cảm nhận được đời sống Phật giáo Nhật Bản và có cái nhìn sâu sắc hơn về tín ngưỡng này ở một cường quốc của Châu Á.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Luận bàn hai chữ “Cuộc đời” trong bài kệ của Thiền sư Pháp Loa

Tư liệu 13:32 21/11/2024

“Cuộc đời của mỗi con người chỉ như một giấc chiêm bao – vô thường. Nếu không có hiểu biết, không tìm thấy cái ta chân thật, thì dù làm bao nhiêu việc cũng chỉ là làm mộng, bao nhiêu cái biết, cũng chỉ là cái biết hư vọng”.

Mối quan hệ giữa đời sống và việc tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông

Tư liệu 14:05 20/11/2024

Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn nhấn mạnh quan niệm tiến bộ của Phật giáo Đại Việt rằng “Phật giáo là cuộc sống, không có sự cách li, phân biệt, bởi vì Phật giáo là gì nếu không phải đó là một quá trình đi tìm chân l‎ý.

Tiếc là con người chỉ có hai tay

Tư liệu 08:20 19/11/2024

Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái đến tuổi gả chồng, có hai gia đình Đông gia và Tây gia cùng đến cầu thân.

Bay qua miền hạnh phúc

Tư liệu 17:30 18/11/2024

Phật pháp chính là diệu pháp, đã chắp cho tôi đôi cánh, giúp tôi bay lên cao, ra khỏi vực thẳm tuyệt vọng, đi đến miền hạnh phúc…Tôi xin cảm tạ Chư Phật Bồ Tát, cảm tạ tất cả những thiện hữu đã nhọc nhằn tâm lực, công sức vì tôi.

Xem thêm