Người thượng căn, thì quán pháp vô sinh sám hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không có cao tăng, thì dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao tăng Đại đức thì dùng tác pháp sám hối. Còn thấy mình tội chướng nặng nề và thấy các pháp trên khó thực hành được, thì cứ mỗi đêm, hay trong bữa ăn chay và ngày sóc vọng, tùy tiện đến chùa hay ở nhà chí tâm lạy hồng danh sám hối, hoặc tiểu sám hối cũng lần lần nhẹ nghiệp xấu ác đã tạo.
2. Tác dụng của cầu an
Trước khi chúng ta muốn cầu an cho mình và gia đình, thì đầu tiên ta phải tìm hiểu nguyên nhân nào làm cho chúng ta bất an, (vì không an nên chúng ta mới đi cầu an). Trong kinh tạng và rải rác trong giáo lý, đức Phật dạy: “Tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo”. Trong bài Sám nhất tâm có nói, dĩ không an do tâm tham luyến và ý lúc nào cũng điên đảo vọng tưởng. Vì do lòng tham dục luyến ái và vọng tưởng, kết quả bị khổ đau.
Theo giáo lý đạo Phật, tham có 5 loại: Tham tài, tham sắc, tham danh, tham thực, tham thùy. Vì những dục tham này, mà đưa đến sự bất an của con người. Ví dụ: Tham tài, chỉ tiền bạc, vàng ngọc vật chất, các thứ này nó cám dỗ con người không biết sao cho đủ, bởi có một đòi mười, có mười đòi một trăm, lòng tham không cùng. Khi lòng tham dấy khởi, thì ý nó phải mơ ước vọng tưởng để đạt cho kỳ được. Nếu không đạt được thì lo nghĩ quên ăn, mất ngủ… lâu ngày thần trí bất minh, sinh bệnh tật. Đây là nguyên nhân bất an do lòng tham tài không biết đủ gây nên.
- Tham sắc: Chữ sắc ở đây theo pháp tướng tôn thì có hai thứ sắc đó là sắc đẹp của người ta về thể xác, do lòng tham nên so sánh đẹp xấu. Đã có vợ chồng rồi, nhưng lòng ham muốn vô bờ bến muốn chiếm hữu để thỏa mãn cá nhân mà bất chấp luật pháp, thuần phong mỹ tục tìm mọi cách chiếm hữu…nhưng khi không đạt được ham muốn do đối tượng từ chối hoặc gia đình ngăn cản, thì sân si giận dữ, lòng dạ mê mờ, lâu ngày trở nên kháu bó, làm cho gia đình xào xáo bất an mất hạnh phúc, đó là do tham sắc đẹp.
Còn sắc pháp chỉ chung cho mọi hình tướng như: nhà cửa, xe cộ, phương tiện thuộc về vật chất, nếu tâm không biết đủ, ý dấy lên so sánh ước muốn không thực tế với điều kiện hoàn cảnh của mình như: xây nhà to, mua xe cộ đắt tiền và các ham muốn khác do đua đòi mà nợ nần chồng chất, mất ăn mất ngủ… Bởi lòng tham muốn dẫn đến khổ đau, đó là nguyên nhân bất an về tham sắc nói chung.
Cùng với những nguyên nhân bất an nêu trên, những nguyên nhân mà chúng ta thường gặp mang tính phổ biến của bất an đó là: Gặp thầy tà (ngoại đạo) khi chúng ta đi coi số cách, điền trạch, nhà ở; xem mồ mả cha mẹ, ông bà. Khi gặp điều vui vẻ không sao, nhưng khi gặp “xui xẻo” do thầy “tà” phán xét, hù dọa mà đem lòng sợ hãi bất an; với người không hiểu biết chính pháp, đụng đâu tin đó, rồi nghe thầy ngoại đạo, cúng kiến quàng xiên mà chuốc lấy phiền não không dứt.
Kết cục hao tổn tiền bạc tâm trí, gia đình bất an mất đi hạnh phúc. Vậy đức Phật dạy về vấn đề này như sau: “Người mê tín dị đoan có 4 cái mất: mất chính mính, mất sáng suốt, mất hạnh phúc gia đình và cái mất thứ tư lớn hơn đó là, nếu quốc gia nào có nhiều người mê tín, thì quốc gia đó mất sự hùng cường”. Cùng với những nguyên nhân bất an dẫn chứng nêu trên, trong đời sống chúng ta còn nảy sinh biết bao điều bất như ý khác nữa, nên con người tìm đến sự cầu an.
Vậy thực tế cầu an có an không?
Cổ đức có câu: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnh. Sức mạnh tinh thần ấy gọi là năng lượng tâm linh, nếu ta cố ý chuyển năng lượng tâm linh ấy đến một người nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy, đó là điều khó tin nhưng có thật. Mối quan hệ tinh thần và thể xác, giữa tâm linh và thế giới khách quan là mối quan hệ duyên sinh tương tác lẫn nhau. Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hóa đến vật chất hay sinh vật, các vị thiền sư có thể cảm hóa hổ báo hung dữ, ngay cả loài thảo mộc nếu được thương yêu chúng cũng tươi tốt hơn, đã có nhiều cuộc thí nghiệm của các nhà khoa học hàng đầu thế giới chứng minh cho sức mạnh tinh thần này (Do giới hạn bài viết không nêu ở đây).
Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện, luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh, bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện. Người phát ra một năng lượng tâm linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào, thì nó sẽ tạo ra một lực hấp dẫn thu hút nguồn năng lượng tương ứng trong không gian (có thể gọi là năng lượng của các đức Phật hay Bồ tát) mà ta gọi là tha lực. Tùy theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả năng, hiệu quả lớn hay nhỏ.
Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bi, vị tha, do đó mà tạo nên “đức độ”. Tâm ta càng xu hướng về vô ngã vị tha thì mối quan hệ tương tác (cảm ứng) giữa tâm ta và tâm Phật, Bồ tát (tha lực) sẽ càng chặt chẽ. Do đó, có tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mà mình cầu nguyện. Đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực. Dĩ nhiên không phải ai cầu cũng ứng, cũng được an. Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiện, bởi nhân duyên có đủ hay không; cũng như một ngọn lửa bùng cháy phải có đủ các điều kiện. Vậy không nên coi cầu an là phương pháp tối thượng mà chỉ là một “trợ duyên”. Điều quan trọng vẫn là “nội lực” hay “nghiệp lực”.
Cầu nguyện không phải muốn gì được nấy, không phải là xin ơn trên thỏa mãn các yêu cầu “bất thiện” của mình. Điều chính của sự cầu nguyện trong đạo Phật đó là sự chuyển hóa nghiệp lực. Nếu mình tạo tác ác nghiệp thì cầu nguyện là vô ích. Cầu nguyện theo hướng chuyển ác thành thiện thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật dung hợp khuyến khích.
Thông thường khi nói đến cầu nguyện ta thường nghĩ đến tha lực của Phật, Thánh…nhưng cầu nguyện trong Phật giáo không phải thuần túy nhờ vào tha lực mà nhờ vào tự lực là chính. Vậy mới có chuyện, có người cầu nguyện thì linh ứng, người khác lại không? Điều đó tùy thuộc vào tự lực hơn tha lực. Không phải Phật không thiêng mà chính là “tự lực” của chúng ta chưa đủ, hay nói cách khác là lòng thành kính, sự thành tâm, nhất tâm và nghiệp lực chưa đủ. Trở lại câu cổ đức: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” có nghĩa rằng, cầu an để được an là phải y theo chính pháp, ngược lại theo (ngoại đạo) tức tà đạo chỉ chuốc lấy phiền não không ngày cùng.
3. Tác dụng của sám hối
Chúng ta sống trên đời này, không ai dám nói mình là người hoàn toàn trong sạch, nên Phật thường dạy: “Phàm xuống lên ba cõi, lăn lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi”.
Thế nên sống trên cuộc đời cát bụi này, thì làm sao trong sạch được, vậy ở trong cát bụi tất phải có bụi. Bụi đời bên ngoài, bụi trong tâm ý gây nên bao ác nghiệp từ nhiều đời nhiều kiếp. Nó làm cho ta không thấy được con đường chính, xa rời chân tâm, đắm mình trong tội lỗi. Vậy chúng ta muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để tẩy trừ bụi nhơ, tẩy trừ tội lỗi. Trong đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối.
Vậy sám hối đem lại lợi ích như thế nào? Theo kinh Sám hối của đạo Phật: Sám hối để tỏ lòng ăn năn, để trở về hành động chính kiến. Chữ “sám” tiếng Phạn gọi là sam ma; tiếng Hán gọi là “hối quả”. Kinh nói “Sám giả sám kỳ tiền khiên, hối giả hối kỳ hậu quả”. Nghĩa chữ sám là ăn năn lỗi trước, còn hối là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ sám hay một chữ hối thì chưa đủ ý nghĩa, nên các cổ đức xưa ghép hai chữ lại thành danh từ “sám hối”, dịch theo tiếng Việt là “ăn năn chừa lỗi”. Như thế trong chữ sám hối có hàm nghĩa là ăn năn, hối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ và bây giờ cho đến về sau mình nguyện là không tái phạm.
Theo giáo lý, chữ sám hối là danh từ riêng của đạo Phật, nhưng trong đời sống thế tục, hình thức sám hối, nhận lỗi cũng được áp dụng phổ biến theo tín ngưỡng dân gian. Ví dụ như có lỗi với ông bà, làng xóm, thường dùng trầu rượu, heo gà, tiền bạc để tạ lỗi. Theo HT.Thiện Hoa, hình thức tạ lỗi sám hối trên cũng được, nhưng chưa hoàn hảo và còn thô thiển chấp kiến. Bởi nó chỉ áp dụng để đối phó với bên ngoài, chứ bên trong tội lỗi xảy ra ở nội tâm, thì khó có thể áp dụng hình thức nói trên. Đơn cử như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa tội với thần linh. Có đạo chủ trương xuống tắm ở những sông, suối mà người ta cho là linh thiêng thì hết tội; có đạo lại đem phẩm vật để xin thánh thần tha tội; có đạo lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập mình, nhịn đói khát…để được giải thoát tội lỗi.
Những cách chuộc tội như thế đều sai lầm mang màu sắc mê tín. Theo đạo Phật, tội lỗi thuộc về tâm lý (duy thức tôn) không có hình tướng rất vi tế. Vậy làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết phẩm vật hay xác thân làm sạch tội lỗi được. Cho nên đức Phật dạy: Tội lỗi do tâm của ta tạo ra, không ai có thể thưởng phạt được. Tội lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng phải từ tâm mà diệt. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp sám hối chân chính của đạo Phật mà thực hành mới tiêu được nghiệp chướng vi tế.
Theo luật nhân quả, kẻ gieo giống xấu thì phải ăn quả dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngọt ngon. Tội lỗi do mình tạo, thì cũng từ mình mà sám hối. Muốn hết tội, phải tuân theo chính pháp (tức không theo tà ma ngoại đạo). Trong đạo Phật có 4 pháp sám hối, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý dưới đây:
a. Tác pháp sám hối: Pháp sám hối này thuộc về sự, phải lập giới đàn và phải thỉnh thanh tịnh tăng chứng minh, nên gọi là tác pháp. Khi vào giới đàn mình phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là hết tội.
b. Thủ tướng sám hối: Pháp này thuộc về sự và khó hơn pháp trước. Phật chế pháp này, là sám hối thuộc quán tưởng, cho những người tu hành có trình độ cao, hoặc ở chỗ không có tăng, hay có nhưng không được thanh tịnh. Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước tượng Phật hay Bồ tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm và nguyện ăn năn chừa bỏ. làm như thế 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày và mãi đến khi nào thấy được hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu v.v... thì mới thôi.
c. Hồng danh sám hối: Pháp này thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống (Trung Hoa) soạn. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong kinh “Ngũ Thập Tam Phật, tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến đức Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương Phật và rút 35 danh hiệu trong kinh “Quán Dược Vương, Dược thượng” với pháp thân đức Phật A Di Đà, sau đó thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ 108 phiền não. Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi đã tạo trong đời hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ.
Đức Phật Tỳ Bà Thi nói: “Nếu chúng sinh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác”. Đức Phật Thích Ca nói: “Thuở xưa, thời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này và thành tâm lễ bái mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sinh tử luân hồi nhiều kiếp”.
Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ đức Phật Thích Ca cho đến đức Phật Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương, thì trong kinh Bửu Tích nói: “Nếu tất cả chúng sinh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp… chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ”.
Hồng danh của chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn như vậy, nên Ngài Bất Động Pháp Sư mới soạn ra để làm nghi thức sám hối. Pháp hồng danh sám hối hiện nay, hầu hết các chùa đều thực hành. Về sau Ngài Từ Vân Pháp Sư vì những người yếu đuối, hoặc không quen lạy nhiều, nên đã soạn ra một nghi thức sám hối rất gọn dễ và đầy đủ ý nghĩa, gọi là pháp tiểu sám hối, để cho phật tử hàng ngày có thể sám hối tội lỗi của mình.
d. Vô sanh sám hối: Pháp này thuộc về lý sám hối, rất cao và khó, bậc thượng căn mới có thể thực hành được.
- Quán tâm vô sanh: Nghĩa là quán sát tự tâm mình hiện tiền không sanh. Như kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không”. Quán trong ba thời gian đều không có tâm, thì vọng niệm từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có, thì các tội lỗi cũng không. Kinh nói: “Tội từ nơi tâm sinh mà cũng từ tâm diệt. Nếu tâm này không sanh, thì tội cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối”.
- Quán pháp vô sanh: Nghĩa quán sát thật tướng (chân tánh) của các pháp không sanh. Chữ “thật tướng”, nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nên gọi là thật tướng. Nó cũng có tên là chân như hay chân tâm. Khi nhận được thật tướng rồi, thì các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia, không còn gá nương vào đâu mà tồn tại. Trong kinh Quán Phổ Hiền có chép: “Muốn sám hối, phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn toàn tiêu diệt.”
Luận về tội lỗi và thời gian: Ta thấy tội lỗi xưa là rất nhiều, bởi sự tiếp nối liên lạc với nhau từ đời nọ đến đời kia, như một xâu chuỗi dài vô tận. Rồi đến mỗi đời, từ sinh đến tử, từ tử đến sinh, chúng ta cứ tạo thêm tội lỗi lớn nhỏ không dứt, cứ cái đà tăng trưởng mãi ấy, mà tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dẫn dắt chúng ta vào những đường khổ não, mê lầm, tức là dòng sinh tử mà chúng ta đang thọ vậy.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phổ Hiền Bồ tát có nói hết: “Nếu tội lỗi chúng sinh có hình tướng, thì tất cả hư không cũng không chứa hết”. Thật thế, tội lỗi của chúng sinh chất chồng từ muôn vạn kiếp và truyền nối qua thời gian, bởi di truyền, phong tục, thói quen v.v… Chẳng hạn như tính tham, chúng ta mới sinh, nào có ai dạy thế mà vẫn biết! Cũng không ai bảo chúng ta giận hờn, vậy mà gặp điều gì trái ý, là cau có chửi bới om sòm.
Những tính xấu ấy có một lần với thân mà rất sâu sắc khó dứt trừ. Trong kinh gọi chúng là “câu sanh phiền não”, hay “bổn hữu chủng tử” nghĩa là hạt giống có từ lâu. Những hạt giống xấu này lại làm duyên sinh ra các tội lỗi khác, mà trong kinh luận gọi là “phân biệt phiền não” hay “thỉ khởi chủng tử”, nghĩa là hạt giống mới nhiễm ô do ảnh hưởng thời đại, tập quán, phong tục chi phối. Theo các tổ thầy dạy: “Phân biệt phiền não” thì có thể dễ trừ, nhưng “câu sanh phiền não” rất khó trừ.
Chúng như cỏ cú (cỏ ấu) đâm sâu gỗ rễ rất xa; nếu người làm vườn khinh thường thì không dễ gì dọn đất sach cỏ. Cho nên chúng ta không nên sám hối lấy lệ, lấy được. Muốn dứt tuyệt chúng, nếu không có phương pháp thích hợp, thì chả khác nào lấy đá đè cỏ: nó nằm bẹp tạm thời, nhưng dời đá đi, nó sẽ mọc lên mạnh hơn trước. Vậy phương pháp thích hợp trong sự sám hối là: Phát triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
Thực tế trong mỗi chúng ta, không phải toàn chứa đựng những tính xấu xa. Nếu tính xấu đã có từ muôn đời, thì tính tốt đã có từ vô thỉ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tính là cái mầm của hạnh lành, cái mầm ấy đã bị chôn vùi dưới bao lớp dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng thì chúng ta phải tạo điều kiện cho cái mầm Phật tính trổ lá, lên hoa, kết trái Bồ đề. Điều kiện làm cho mầm Bồ đề ấy phát triển là hạnh lành: Từ bi, Hỷ xả, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn. Nếu chúng ta phát triển những tính tốt ấy, tất nhiên những tính xấu ác không có đất để mọc lên nữa.
Qua thực tế trên, chúng ta thấy người thế gian hay các tôn giáo đều có cách thức ăn năn ngừa lỗi cả. Song, chỉ có pháp sám hối thứ nhất của đạo Phật đã nêu, mới dứt trừ được tội lỗi, do chỗ lấy sự cải ác, tòng thiện làm cốt yếu. Trong bốn pháp sám hối của đạo Phật, có pháp về sự, có pháp về lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng.
Người thượng căn, thì quán pháp vô sanh sám hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không có cao tăng, thì dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao tăng Đại đức thì dùng tác pháp sám hối. Còn thấy mình tội chướng nặng nề và thấy các pháp trên khó thực hành được, thì cứ mỗi đêm, hay trong bữa ăn chay và ngày sóc vọng, tùy tiện đến chùa hay ở nhà chí tâm lạy hồng danh sám hối, hoặc tiểu sám hối cũng lần lần nhẹ nghiệp xấu ác đã tạo.
Trong các pháp sám hối của đạo Phật, mặc dù có lạy có quỳ, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin được tha tội như tín ngưỡng dân gian. Trong cái lạy, cái quỳ (tự lực) ấy, có chứa không biết bao nhiêu ý nghĩa và lợi ích. Vẫn biết lạy và quỳ, nhất là trong pháp hồng danh sám hối, thật là tổn hơi mệt xác, nhưng trong cái mệt xác thân ấy, có cái vui tinh thần, trong cái sự tướng bên ngoài có cái ý nghĩa bên trong.
Tóm lại các pháp sám hối của đạo Phật, nếu thực hành một cách đúng đắn, thành thật, sẽ đem lại những kết quả quý báu: Làm phát triển lòng thành thật; trau dồi đức tính kiên quyết trong sự diệt trừ tính xấu; dứt được tội, sinh phước đức; mau đến chỗ giải thoát an vui.
Thay lời kết
Khi con người chưa làm chủ hoàn toàn thân tâm, chưa vượt qua được những nỗi lo âu, sợ hãi, chưa đạt được trình độ tu chứng tự tại vô ngại, thì cầu nguyện sám hối có tác dụng hỗ trợ cho mình vững tiến trên con đường đạo. Qua các phương cách và đối tượng cầu nguyện, con người có thể bày tỏ được niềm thương, nỗi nhớ, sự biết ơn và báo ơn đối với ông bà, cha mẹ và những người thân của mình. Như vậy cầu nguyện là một nét đẹp văn hóa, giàu tính nhân văn, đem lại niềm tin và củng cố đạo đức, nhằm thuần hóa tính ác và sự tiêu cực nói chung, trả lại bản tính thiện lành của con người. Hơn nữa, cầu nguyện làm tăng thêm nghị lực, phát khởi niềm tin, trí tuệ về tâm linh, hướng tới chân lý và mục đích cao thượng là giác ngộ - giải thoát.
Trong cầu nguyện sám hối, chỉ cần chúng ta có được lòng tin, đức tin và sự thành thật, nhất tâm cho một mục đích trong sáng cao thượng vì lợi ích tha nhân và sự thành khẩn của lòng mình, thì sự cảm ứng của Phật lực và Bồ tát chắc chắn sẽ xảy ra. Điều cần thận trọng khi thực hiện pháp này là chúng ta đừng có lòng vị kỷ bản thân, đừng để rơi vào cuồng tín (mê tín) cực đoan, thân tâm phải luôn luôn thanh tịnh sáng suốt. Nếu cầu nguyện không đúng chính pháp hoặc lạm dụng cầu nguyện để thực hiện tham vọng riêng tư, thì không những không linh ứng mà còn phản tác dụng, tạo thêm ác nghiệp. Nếu chúng ta thật lòng y pháp phụng hành cầu nguyện sám hối, thì mọi điều mong muốn đều có thể viên mãn bất khả tư nghị.
Nguyễn Đức Sinh
-
Tài liệu tham khảo:
- Tám quyển sách quý - HT.Thích Thiện Hoa (Nxb.Tp.HCM-1989)
- Tu là chuyển nghiệp - HT.Thích Thanh Từ (Nxb-TG 2002)
- Hiển mật viên thông - Cư sĩ Trần Giác, Thích Đạo Chân, Thích Viên Đức. (Chùa Dược Sư, Ban Mê Thuột ấn tống - PL.251, DL.1975)
- Bài: Ý nghĩa của sự cầu nguyện - Tác giả: Thích Đức Trí - Viên Giác. (Giác ngộ Online 2008. Báo Điện tử ĐPNN - tháng 11/2016) TIN, BÀI LIÊN QUAN: