Sau đêm dài man rợ, rùng rợn của thời đại Bắc Thuộc, sau thời kỳ loạn lạc suy tàn của ba chế độ pháp trị và bạo trị ngắn ngủi Ngô, Đinh, Lê, tất cả đều phải được làm lại, tất cả đều phải được bắt đầu lại, đó là sứ mạng của thời đại. Trước họa nội chiến, trước nạn ngoại xâm, trước chế độ độc tài, tàn bạo, dân tộc cần được cứu nguy, đất nước cần được quang phục, con người cần được giải phóng. Đó là tiếng kêu, đó là nhật lịnh của lịch sử.
Dưới sự cai trị bạo ác của chế độ Lê Long Đỉnh, dân tộc ta bị kéo lê lết, lầm lũi đi xuống vực thẳm, họa nội chiến chực xô đẩy dân tộc xuống đồng lầy, nạn ngoại xâm chực đạp đầu dân tộc xuống bùn đen.
Thế rồi, trong cơn nguy biến ấy, trong giờ phút hấp hối ấy, bỗng nhiên, Thiền Sư Vạn Hạnh xuất hiện, thần tốc vung tay, siêu việt chuyển hóa, dũng mãnh hành hoạt đem “Trụ tích trấn Vương kỳ” (Dùng gậy của nhà Phật để trấn giữ Kinh kỳ của nhà Vua).
Bằng cái thiền trượng mầu nhiệm ấy, Thiền Sư Vạn Hạnh đã tung mình bay đến đứng trên vực thẳm, hùng tráng nhảy vọt qua hố thẳm, bay bổng qua cảnh đầm lầy và thiền sư đã mang cả dân tộc vượt thắng, vượt qua, vượt lên hố thẳm diệt vong và đầm lầy suy vi. Không những mang cả dân tộc cùng đi, Thiền Sư Vạn Hạnh còn cõng cả thời đại trên lưng để bay đi kỳ vĩ - từ vực sâu bạo trị, vô trị của các nhà Ngô, Đinh, Lê đến đỉnh cao Văn Trị và Đức Trị của thời đại Lý, Trần, thời đại hưng thịnh nhất, tuyệt vời nhất và vinh quang nhất của dân tộc.
Thiền sư Vạn Hạnh là ai?
Thiền Sư là một con rồng lớn, bóng dáng hùng vĩ của thiền sư ngả dài che mát cả dòng lịch sử, nhưng hình tướng của thiền sư thì ẩn, khi hiện, sử sách chỉ để lại vài ba dấu vết đơn sơ, đơn sơ như một bức tranh thủy mạc, đơn sơ như tâm hồn Việt Nam.
Con người lịch sử của Thiền Sư Vạn Hạnh quá vĩ đại, lại bàng bạc như hư không nên các sử gia không thể nào thấy trọn, thấy hết. Không những thế, nhiều sử gia đã không hề thấy. Các sử gia ghi rằng: “Cuối triều Lê, khi Ngọa Triều chết, Vạn Hạnh cùng với triều thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc, mưu lập Lý Công Uẩn lên ngôi”.
“Khi Lý Công Uẩn còn bé, sáng suốt tinh khôn, phong tư tuấn tú khác thường, Vạn Hạnh thấy biết ông sẽ làm nên nghiệp lớn và nói rằng: “Người nầy không phải là người thường, lớn lên tất làm vua giỏi một nước”.
“Vạn Hạnh, thiền sư ở chùa Lục Tổ, thuở nhỏ ông đã khác thường, thông hiểu ba môn học, nhưng coi công danh phú quý lạt lẽo. Năm 21 tuổi xuất gia với Thầy Đinh Huệ, theo học thiền ở Chùa Lục Tổ, ngoài giờ phục vụ, học hỏi quên mệt mỏi. Sau khi tu hành đắc đạo, nói câu nào ắt thành lời sấm”.
Đời sau, nói đến Thiền Sư, người ta thường nhớ tới bài thơ tán dương của Vua Lý Nhân Tông, người lãnh đạo quốc gia, đại diện cho Đời, đối với Thiền Sư Vạn Hạnh, người đại diện cho Đạo:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm thi,
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ Tích trần vương kỳ
(Thiền sư Vạn Hạnh hợp nhất ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai. Đúng như lời thơ tiên tri thời cổ xưa; Quê hương danh tiếng của thiền sư là làng Cổ Pháp, Thiền sư đã đem gậy nhà Phật để bảo vệ lãnh thổ Quốc Gia).
Trước khi có cuộc cách mạng năm 1009, Thiền Sư Vạn Hạnh đã đóng một vai trò quan trọng trong triều đình như là cố vấn của nhà vua. Khi quân Tống sang xâm lăng nước ta năm 980, Vua Lê Đại Hành hỏi thiền sư nếu đánh thì thắng hay bại, thiền sư trả lời là nội trong ba, bảy ngày thì giặc phải thua chạy. Rồi năm 982, khi quân Chiêm Thành bắt hai sứ giả của ta, thiền sư đã khuyên vua cấp tốc xuất quân Nam chinh thì sẽ đại thắng. Quả nhiên, đối với hai vấn đề trọng đại sinh tử nầy là đương đầu với đế quốc phương Bắc và đánh dẹp phương Nam vào thời ấy đều đúng như lời thiền sư tiên đoán.
Hai việc chính sự kể trên mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã tham dự đều xảy ra dưới thời Vua Lê Đại Hành, là một vị minh quân. Đến thời Lê Long Đỉnh, sử sách không nói gì đến vai trò của thiền sư. Có lẽ thiền sư đã đứng ra cố vấn cho minh quân Lê Đại Hành, nhưng đến thời hôn quân bạo chúa Lê Long Đỉnh, lên ngôi làm những việc bạo ác và dã man, xúc phạm nặng nề đến Phật giáo như dùng dao róc mía trên đầu các sư, nên thiền sư đã rút về ẩn trong bóng tối để âm thầm chuẩn bị một cuộc đại hành hoạt đưa dân tộc đến kỷ nguyên ánh sáng. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh là linh hồn của cuộc cách mạng bất bạo động vào năm 1009, thiền sư đã âm thầm, kiên trì chuẩn bị và vận động cuộc cách mạng nầy từ lâu.
Từ thuở Lý Công Uẩn còn là một chú bé tóc để chỏm đi làm chú tiểu ở Chùa Cổ Pháp, gặp chú tiểu nầy, thiền sư bằng tuệ giác đã biết sau nầy chú bé sẽ trở thành một minh quân, một bậc vĩ nhân của dân tộc. Sử chép rằng Lý Công Uẩn là con nuôi của Thiền Sư Lý Khánh Vân, trụ trì Chùa Cổ Pháp và là đệ tử của Thiền Sư Vạn Hạnh từ thuở còn thơ. Bằng sử liệu đơn sơ nầy, ta có thể quả quyết rằng Lý Công Uẩn từ thuở bé đã lọt vào mắt xanh của Thiền Sư Vạn Hạnh và đã được thiền sư giáo dục, hướng dẫn để trở thành một con người lịch sử, làm tròn sứ mệnh mà dân tộc và đạo pháp đã giao phó.
Khi làm như thế, Thiền Sư Vạn Hạnh không phải làm vì Phật giáo, vì thời đó, qua ba chế độ độc lập Ngô, Đinh, Lê thì Phật giáo đã là quốc giáo ở Việt Nam. Rõ ràng thiền sư đã làm là vì dân tộc, vì muốn chuyển hóa xã hội bạo trị thành một xã hội đức trị, biến một quốc gia Việt Nam mong manh, suy vi thành một quốc gia Việt Nam hùng cường, hưng thịnh. Thiền sư đã ra tay hành động, vừa là để tránh cho dân tộc khỏi rơi vào vực thẳm, khỏi trầm luân trong đầm lầy và vừa để xây dựng trên đống tro tàn, gạch vụn đổ nát của thời Bắc thuộc và thời chiến tranh, loạn lạc, độc tài, bạo trị, một lâu đài Việt Nam nguy nga, tráng lệ, một sự nghiệp Việt Nam trường tồn bất tử ngàn năm. Tuy đã âm thầm chuẩn bị và vận động cuộc cách mạng 1009 từ lâu và chuẩn bị trên mọi mặt, từ sự giáo dục bản thân Lý Công Uẩn, biến cậu bé khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường nầy thành một người tài đức vẹn toàn, đồng thời thấm nhuần chánh pháp để có thể trở thành một Quân Vương Bồ Tát, để trị quốc an dân theo chánh pháp, đến sự khai thị nhân tâm, chuẩn bị dư luận quần chúng, tuyên truyền vận động chính trị bằng sấm truyền về vai trò lịch sử tất yếu của Lý Công Uẩn, qua việc thăm dò, móc nối và tổ chức nhân sự để thực hiện cuộc đảo chánh và sau đó là để tiến hành cuộc cách mạng.
Trong thời kỳ tiền cách mạng, chính thiền sư đã làm tất cả thể theo một kế hoạch dài hạn, với một kỷ thuật siêu việt, nhưng đến khi cách mạng xảy ra thì thiền sư không làm gì cả. Người ta không thấy thiền sư cầm quyền lãnh đạo. Thiền Sư chỉ ngồi yên, mỉm cười bên chén trà hay lặng lẽ cuốc đất hay đã biến mất vào hư không. Sử ghi lại rằng ngày cuộc cách mạng xảy ra thành công tốt đẹp và Lý Công Uẩn được suy tôn lên làm Hoàng Đế thì Thiền Sư Vạn Hạnh đang ngồi uống trà ở Chùa Lục Tổ. Thiền sư đã biết trước việc nầy và nói cho mọi người trong chùa nghe. Họ vội vàng chạy về kinh đô để nghe tin, thì quả đúng như lời thiền sư nói.
Sử sách và thế gian chỉ ghi rằng Lý Công Uẩn lên làm vua, Đào Cam Mộc dẹp yên các phe phái trong triều đình và quần chúng ủng hộ cuộc cách mạng. Còn Thiền Sư Vạn Hạnh, người như hạc vàng, đã bay vào vô tận, không để lại dấu vết, hình tướng, chỉ để lại hương thơm muôn thuở trong lòng người và lòng dân tộc. Không những đối với cuộc cách mạng năm 1009, mà đối với tất cả sự nghiệp vĩ đại khác mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã làm như dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, kiến thiết kinh thành Thăng Long..., thiền sư đều làm với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh và vô hành. Giúp dân dựng nước hay hoằng pháp độ sanh, thiền sư đều làm một cách bình dị, tự nhiên như uống trà, cuốc đất, thở ra, thở vào, nằm, ngồi, đi, đứng.
Qua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ cao đẹp nhất, bao trùm nhất. Sự nghiệp của Thiền Sư Vạn Hạnh không phải là sự nghiệp của Phật giáo Việt Nam mà thôi, mà còn chính là sự nghiệp Việt Nam. Thiền Sư Vạn Hạnh qua những công việc phi thường nầy, đã không làm cho riêng mình, đóng góp không ít cho Phật giáo mà đã làm tất cả cho dân tộc VIỆT NAM.
Điều kỳ diệu là sau khi hoàn thành sự nghiệp lớn lao vô song nầy và giữa thời đại thịnh của dân tộc VIỆT và Đạo Phật VIỆT, Thiền Sư Vạn Hạnh đã để lại cho đời bốn câu thơ siêu thoát và bay trong cõi vô cùng của lịch sử:
示 第 子
身 如 電 影 有 還 無
萬 物 春 榮 秋 又 枯
任 運 盛 衰 無 怖 畏
盛 衰 如 露 草 頭 舖
Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Thích Mật Thể dịch)
Lý Khôi Việt