Thứ sáu, 12/09/2025, 09:41 AM

Tỳ -kheo tát thuyền này

Kinh Pháp Cú xác nhận sự kiện người xuất gia mà thường xuyên nỗ lực tu tập và thanh lọc nội tâm, khiến cho tâm càng ngày càng trở nên trong sáng, thanh tịnh, không còn uế nhiễm bởi tham-sân-si, thì mau chóng đạt đến Niết-bàn tịch tịnh, tức vắng bặt hoàn toàn tham- sân-si, chấm dứt mọi phiền não khổ đau:

Tỳ-kheo tát thuyền này,

Thuyền không, nhẹ đi mau,

Trừ tham, diệt sân hận,

Tất chứng đạt Niết-bàn (1).

Thuyền này tức là thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), là quãng thời gian hiện hữu của con người trên cõi đời. Phàm sinh ra ở đời thì mỗi người đều mang tấm thân ngũ uẩn và đều nương vào thân ngũ uẩn để tồn tại và thực hiện mọi ước mong của mình. Theo quan niệm của đạo Phật thì khổ đau sanh tử hàm tàng trong thân ngũ uẩn mà an lạc giải thoát cũng có sẵn trong thân ngũ uẩn của mỗi người (2). Chính thân ngũ uẩn mà mỗi người đang mang là con thuyền không bánh lái đưa đẩy người ấy trôi dạt chỗ này chỗ kia trong biển sanh tử luân hồi, nhưng cũng chính thân ngũ uẩn ấy là phương tiện hữu hiệu đưa người ấy ra khỏi luân hồi khổ đau, đạt đến bờ giải thoát, Niết-bàn. Vấn đề là con người biết vận dụng thân ngũ uẩn ấy như thế nào. Nếu thiếu hiểu biết và vận dụng sai lầm thì thân ngũ uẩn sẽ thành ra chướng ngại, mang lại khổ đau cho đời sống của con người; trái lại, nếu khéo hiểu biết và sử dụng đúng đắn thì chính thân ngũ uẩn ấy trở thành phương tiện thiện xảo giúp con người thành tựu các mục đích cao quý, đưa đến chấm dứt khổ đau. Ý nghĩa và giá trị đích thực của đời người nằm ở chỗ này, tức là biết vận dụng quãng đời ngắn ngủi của kiếp người để thức tỉnh, để ra khỏi mê lầm khổ đau. Chính vì thế mà Đức Phật dạy Tỳ-kheo tát thuyền này, cốt yếu khuyên nhắc người xuất gia cần phải hiểu rõ và vận dụng đúng đắn thân ngũ uẩn hay quãng đời ngắn ngủi của mình để làm phương tiện đi ra khỏi khổ đau, để chứng đạt Niết-bàn.

Thế nào là Tỳ-kheo tát thuyền này? Đó là nỗ lực tát cạn tham-sân-si, bào mòn các bất thiện pháp tiềm tàng trong chính mình, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm của mình. Đó là việc làm chính đáng, hàng ngày, hàng giờ của người xuất gia. Mục đích tu học của người xuất gia là làm sao mau chóng dứt trừ tham-sân-si, đạt đến Niết-bàn tịch tịnh, chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi. Để thực hiện điều đó thì người xuất gia phải tập trung tu học lời Phật dạy, phải chuyên tâm thực hành Giới- Định-Tuệ để chuyển hóa tự thân, làm trong sạch mọi ý nghĩ, lời nói và hành động, vì Niết-bàn là sự vắng mặt hoàn toàn các cấu uế tham-sân-si. Khi vị Tỳ-kheo nỗ lực chuyển hóa bản thân, làm trong sạch mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của mình trên nền tảng thực thi Giới-Định-Tuệ (từ bỏ tà kiến, thực hành Chánh kiến; từ bỏ tà tư duy, thực hành Chánh tư duy; từ bỏ tà ngữ, thực hành Chánh ngữ; từ bỏ tà nghiệp, thực hành Chánh nghiệp; từ bỏ tà mạng, thực hành Chánh mạng; từ bỏ tà tinh tấn, thực hành Chánh tinh tấn; từ bỏ tà niệm, thực hành Chánh niệm; từ bỏ tà định, thực hành Chánh định) thì vị ấy được xem là đang tát cạn con thuyền ngũ uẩn, khiến cho con thuyền ấy trở thành trống không, rỗng không, sạch không, không cấu uế, không còn tham-sân-si, không nặng nề, không chướng ngại, nhẹ nhàng lướt nhanh đến bờ giác ngộ, gọi là đạt đến đích Niết-bàn.

Kinh tạng Pàli gọi một người như vậy là “bậc A-la- hán, đã đoạn trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.

Có hai bài kinh do Đức Phật giảng cho các Tỳ-kheo, minh họa ý nghĩa Tỳ-kheo chuyên tâm trì chí tát cạn con thuyền ngũ uẩn, khiến cho con thuyền ấy dần dần trở nên trống không, sạch không, không còn tham- sân-si, quyết chắc đưa vị ấy đạt đến giải thoát các lậu hoặc, thực chứng Niết-bàn. Bài kinh thứ nhất đề cập về một người thợ nề miệt mài lao động hết năm này qua năm khác đến độ dấu vân tay của mình in sâu trên cán búa. Bài kinh thứ hai nói đến người thợ kim hoàn cần mẫn trong các khâu đãi lọc và nung nấu quặng vàng để cuối cùng có được loại vàng tinh luyện, có thể tạo ra các sản phẩm theo ý mình muốn.

Tỳ -kheo tát thuyền này 1
Nam Mô A Di Đà Phật 

Nguyên văn lời Phật trong bài kinh thứ nhất:

“Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không chú tâm trong sự tu tập khởi lên ước muốn như sau: ‘Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ!’. Tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập cái gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ, không có tu tập Bốn chánh cần, không có tu tập Bốn như ý túc, không có tu tập Năm căn, không có tu tập Năm lực, không có tu tập Bảy Bồ-đề phần, không có tu tập Thánh đạo tám ngành.

Ví như, này các Tỳ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà, không được con gà mái ấp nằm đúng cách, không được ấp nóng đúng cách, không được ấp dưỡng đúng cách. Dầu cho con gà mái ấy khởi lên ý muốn: ‘Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn’. Tuy vậy, các con gà con ấy không có thể, với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!

Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà mái ấy không được con gà mái nằm ấp một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không chú tâm trong sự tu tập, dầu cho có khởi lên ý muốn: ‘Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ’; tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập cái gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ... không có tu tập Thánh đạo tám ngành.

Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu cho không khởi lên ước muốn: ‘Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ’; tuy vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.

Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Có tu tập cái gì? Có tu tập Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc, có tu tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy Bồ-đề phần, có tu tập Thánh đạo tám ngành.

Ví như, này các Tỳ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà. Các trứng ấy được con gà mái ấp nằm đúng cách, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn: ‘Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!’, tuy vậy, các con gà con ấy có thể với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn.

Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà được con gà mái ấy ấp nằm một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống chú tâm tu tập, dầu cho vị ấy không khởi lên ý muốn: ‘Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ’; tuy vậy, tâm vị ấy cũng được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Tu tập cái gì? Có tu tập Bốn niệm xứ... có tu tập Thánh đạo tám ngành. Ví như, này các Tỳ-kheo, một người thợ nề hay đệ tử người thợ nề, khi nhìn vào cán búa, thấy dấu các ngón tay và dấu ngón tay cái. Người ấy không có thể biết được như sau: ‘Hôm nay từng ấy cán búa của ta bị hao mòn, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy’. Nhưng người ấy biết được cán búa bị hao mòn trên sự hao mòn của cán búa.Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo chú tâm trong sự tu tập không có biết như sau: ‘Hôm nay từng ấy lậu hoặc của ta được đoạn tận, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy’. Nhưng vị ấy biết được các lậu hoặc được đoạn tận trên sự đoạn tận các lậu hoặc” (3).

Bài kinh thứ hai:

“Này các Tỳ-kheo, có những uế nhiễm thô tạp của vàng như bụi, cát, đá, sạn và đá sỏi. Người đãi lọc bụi hay đệ tử của người đãi lọc bụi đem đổ vào trong cái máng, rồi rửa sạch qua rửa sạch lại, rửa sạch thêm nữa.

Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại các uế nhiễm bậc trung của vàng, như cát đá, sạn tế nhị và các hột cát thô tạp. Người đãi lọc bụi hay đệ tử người đãi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.

Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại các uế nhiễm tế nhị, như cát mịn và cát bụi đen. Người đãi lọc bụi, hay đệ tử người đãi lọc bụi lại rửa sạch nữa, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn. Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại bụi vàng.

Rồi người thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng bỏ bụi vàng ấy vào trong cái lò, rồi thụt ống bễ, thụt ống bễ thêm, thụt ống bễ cho đến khi vàng bắt đầu chảy, nhưng không chảy ra khỏi miệng lò. Vàng ấy được thụt bễ, được thụt bễ thêm nữa, được thụt bễ hơn nữa, nhưng không chảy ra khỏi miệng lò, chưa được làm xong, chưa sạch các uế nhiễm, chưa có nhu nhuyến, chưa có kham nhậm, chưa có sáng chói. Vàng ấy còn có thể bể vụn và chưa có thể được tác thành tốt đẹp.

Có một thời, này các Tỳ-kheo, người thợ vàng ấy hay đệ tử người thợ vàng ấy lại thụt bễ, thụt bễ thêm nữa, thụt bễ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi lò. Vàng ấy được thụt bễ, được thụt bễ thêm nữa, được thụt bễ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi lò, được làm xong, được sạch các uế nhiễm, được nhu nhuyến, được kham nhận và được chói sáng. Vàng ấy không bị bể vụn, và có thể được tác thành tốt đẹp. Và loại trang sức nào người ấy muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ý muốn.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thô tạp, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành. Tỳ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại.

Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thuộc bậc trung, dục tầm, sân tầm, hại tầm. Tỳ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho chúng sanh khởi.

Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử tế nhị, như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng về quốc độ, tư tưởng không bị khinh rẻ. Tỳ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho chúng sanh khởi.

Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại các pháp tầm (tư tưởng về pháp).

Định như vậy không có an tịnh, không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhất tâm, nhưng là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép. Nhưng đến một thời, này các Tỳ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhứt tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt đến nhứt tâm, không phải một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép, tùy thuộc theo pháp gì tâm vị ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

Nếu vị ấy ước muốn: ‘Ta sẽ chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

Nếu vị ấy ước muốn: ‘Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

Nếu vị ấy ước muốn: ‘Mong rằng với tâm của mình có thể biết được tâm của các loại chúng sanh khác, tâm của các loài Người khác như sau: Tâm có tham biết là tâm có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm biết không phải là đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định. Tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

Nếu vị ấy ước muốn: ‘Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp; vị ấy nhớ rằng: Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh tại đây’. Vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

Nếu vị ấy ước muốn: ‘Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh ấy làm những ác nghiệp về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục, đọa xứ. Các chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những vị này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân ta có thể thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta có thể biết rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

Nếu vị ấy ước muốn: ‘Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào” (4).

Cả hai bài kinh đều nói rõ phương pháp tu tập quyết chắc đưa người xuất gia đạt đến đoạn trừ các lậu hoặc, giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi, và đều nhấn mạnh thái độ chuyên tâm trì chí trong việc theo đuổi lời Phật dạy như là điều kiện tất yếu để thành tựu mục đích đoạn tận các lậu hoặc.

Các lậu hoặc (àsavà) là thuật ngữ chỉ chung cho các pháp bất thiện, nhiễm ô (tham-sân-si; năm triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi ngờ; mười kiết sử: thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh), làm phát sanh phiền não khổ đau, vốn tiềm tàng trong thân ngũ uẩn của mỗi người. Chúng được tích tập lâu ngày trong cơ thể và tâm thức con người gọi là tập khí sanh tử, có chức năng làm sanh khởi thân ngũ uẩn trong hiện tại và tạo điều kiện cho thân ngũ uẩn tiếp tục sanh khởi ở các đời tiếp theo trong vòng sanh tử luân hồi. Theo quan niệm của đạo Phật thì ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là pháp khổ đau, vì chúng chịu sự sanh diệt, là chỗ quy tụ và hiện hành của mọi mê lầm phiền toái; do vậy sự có mặt hay sự tiếp tục sanh khởi của thân ngũ uẩn tức là sự có mặt hay sanh khởi của khổ đau. Nhưng ngũ uẩn sở dĩ có mặt hay tiếp tục sanh khởi là do các lậu hoặc sanh khởi và hiện hữu, tức do tham-sân-si, các triền cái hay các kiết sử sinh khởi mà tạo nên. Vì vậy, để dứt trừ khổ đau, nghĩa là khiến cho ngũ uẩn không tiếp tục sanh khởi, khổ đau không còn hiện hành, thì người xuất gia phải tập trung dứt trừ các lậu hoặc, phải nỗ lực trì chí bào mòn các lậu hoặc mỗi ngày cho đến khi chúng hoàn toàn tiêu trừ; giống như người thợ nề hay người thợ kim hoàn miệt mài và cần mẫn trong công việc của mình vậy. Đây gọi là Tỳ-kheo tát thuyền này, tức là nỗ lực bào mòn các lậu hoặc, kiên trì tát cạn tham-sân-si hay các bất thiện pháp trong chính mình để tâm thức đi đến giác ngộ. Vị ấy được mô tả có thái độ quyết tâm trì chí như vầy:

“Đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, Tỳ-kheo khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí.

Đối với các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí.

Đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí.

Đối với các thiện pháp đã sanh khởi, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí” (5).

Cố nhiên, như Đức Phật đã dạy, không ai biết chắc mình bào mòn hay làm tiêu trừ được bao nhiêu các pháp ô nhiễm mỗi ngày. Nhưng với sự nỗ lực đều đặn và kinh nghiệm tu tập, người ta có thể quyết chắc và nhận ra sự giảm thiểu của các tập khí tham-sân-si trong đời sống hàng ngày. Đây chính là dấu hiệu của sự tinh cần tát cạn con thuyền ngũ uẩn, một sự tinh cần đúng đắn (Chánh tinh tấn) nhằm loại trừ tám tà đạo và phát huy tám Thánh đạo, khiến cho vị Tỳ-kheo có đủ tin tưởng và kiên trì trong việc nỗ lực bào mòn các lậu hoặc mỗi ngày; tựa như người thợ nề lao động cần cù, tin tưởng nhiều công trình xây dựng hữu ích đã được hoàn thành khi nhận ra dấu vân tay in trên cán búa hoặc như người thợ kim hoàn cần mẫn, quyết chắc các sản phẩm trang sức bằng vàng sẽ được tạo ra như ý muốn khi nhìn thấy các quặng vàng lần lượt được đãi sạch các chất uế tạp, chỉ còn lại các hạt vàng lấp lánh hiện ra vậy.

Chú thích:

1. Kinh Pháp Cú, kệ số 369.

2. Kinh Gánh nặng, Tương Ưng Bộ.

3. Kinh Sự tu tập, Tăng Chi Bộ.

4. Kinh Kẻ lọc vàng, Tăng Chi Bộ.

5. Đế phân biệt tâm kinh, Trung Bộ.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Câu chuyện linh ứng khi niệm Quan Thế Âm Bồ tát

Tư liệu 19:53 30/10/2025

Khi còn ở trong nước, mỗi khi đi học rồi sau đó đi làm, con đều đi xe đạp, lên xe cũng chân trái đạp xuống Nam mô, chân phải đạp xuống A, chân trái Di Đà, chân phải Phật, cứ vậy vừa đi xe đạp vừa niệm Phật cho tới trường hay sở làm.

Quả báo tà dâm không thể không kinh sợ

Tư liệu 07:52 27/10/2025

Người xưa nói: Vạn điều ác dâm đứng đầu, và đó là đường chết, không thể đi. Điều đó đã nói rõ rằng phạm tội tà dâm sẽ bị báo ứng vô cùng nặng.

Lâm chung niệm Phật tự tại vãng sanh

Tư liệu 18:18 22/10/2025

Ông Quách Á Chương là nông dân ở làng Vương Giang, trấn Giác Mỹ, thành Phố Long Hải, năm nay 60 tuổi, vào ngày 26 tháng 8 nhuần âm Lịch, ông đã an nhàn vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ trong tiếng niệm Phật.

Thay đổi cả cuộc đời nhờ hết lòng tin kính Phật Pháp

Tư liệu 11:35 22/10/2025

Khi thắp hương cúng lạy Phật và Bồ-tát, tôi vừa khấn nguyện vừa chảy nước mắt vì tủi phận không may. Tôi thì thầm kể lể chuyện buồn của mình cho Bồ-tát Quán Thế Âm nghe như đã từng kể đủ thứ chuyện từ trước đến nay. Qua khói hương mờ mờ, tôi thấy đôi mắt tượng Bồ-tát như nhìn tôi với một nét dịu dàng, thương cảm.

Xem thêm