Thiện tâm ở tại lòng ta
Bất cứ ai đọc Kiều cũng thấy cuộc đời quá nhiễu nhương: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, để rồi ngẫm nghĩ lại mới thấy bài học quý giá nhất mà thi hào Nguyễn Du để lại cho mọi người là “Thiện tâm ở tại lòng ta” lúc kết truyện.
Thật ra, Nguyễn Du chỉ diễn dịch một cách tài tình một quan niệm của nhà Phật, cho rằng tất cả thành tựu ở đời bắt nguồn từ sự thành tựu tâm.
Một tâm thanh tịnh thì đưa đến thế giới an lạc, giải thoát; ngược lại, một tâm bất thiện thì dẫn đến sự khổ đau.
Sư Thường Chiếu, thuộc thế hệ thứ 12 của dòng thiền Vô Ngôn Thông, từng khuyên bảo học trò mình: “Liễu tâm tu đạo đắc tĩnh lực nhi dị thành, bất liễu tâm tu đạo nãi phí công vô ích”. Nghĩa là: Hiểu tâm tu đạo, thì ít mất sức mà dễ thành công; không hiểu tâm mà tu đạo thì uổng công vô ích.
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc, mà cũng là cái chìa khóa vàng mở cho chúng ta cánh cửa vào sự bất tử.
Ấy thế mà toàn bộ cuộc sống hiện đại lại có xu thế hướng ngoại, lôi kéo con người chạy xa cái tâm của mình, suốt ngày.
Có khi suốt đời cứ chạy đuổi theo danh vọng và quyền lực hão, sắc đẹp hào nhoáng bên ngoài mà không biết dừng nghỉ. Con người hiện đại hốt hoảng trước cái chết là vì lẽ đó.

Mãi tới khi sống gần hết cuộc đời, mới sợ hãi cảm nhận cuộc đời mình đã và đang sống thật vô nghĩa. Tất cả những cái suốt đời mình đeo đuổi đều là hư giả, như bèo bọt, như giọt sương mai, như hoa tàn héo rơi vãi trên mặt đất, như giọt mưa lạnh ban đêm, khi tâm thiện không được vận hành.
Những hình ảnh quen thuộc này, chúng ta có thể tìm thấy trong các bài thơ Thiền Việt Nam. Thí dụ, hai câu thơ sau đây của Sư Vạn Hạnh đời Lý:
Hay là bốn câu thơ sau đây của vua Trần Nhân Tông:
“Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn, Hoa tận vũ tình sơn tịch mịch, Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn...” (Ý nghĩ chạy theo thị phi, như theo hoa rơi ban sớm, Tâm chạy theo danh lợi, như theo mưa đêm lạnh, Hoa rụng hết, mưa tạnh, còn lại cảnh núi non vắng lặng, Một tiếng chim kêu, xuân lại tàn...)
Trần Nhân Tông - Ngài sống trên ngai vua, giữa vòng danh lợi có thể nói là dày đặc và hào nhoáng - mà còn xem danh lợi, thị phi như mưa lạnh đêm chiều, như hoa rơi ban sáng, huống hồ chi là những người bình thường như chúng ta, sống theo đạo giải thoát, sao lại có thể để cho danh lợi, thị phi mê hoặc mãi mãi?
Nhưng muốn không bị danh lợi và những chuyện thị phi làm cho mê hoặc, thì phải làm gì?
Câu hỏi đưa ra, chắc cũng phải có câu trả lời khi tự thân ai cũng đang hiện hữu trong cuộc đời này. Kinh nghiệm của các thiền sư dạy cho chúng ta là phải biết điều tâm, biện tâm, biết sử dụng tâm như một công cụ, một phương tiện hiệu quả nhất để thành tựu mọi hoài bão tốt đẹp ở đời, vì đời.
Trong đời sống vốn vận động không ngừng, bạn hãy bắt đầu sự thực tập điều tâm bằng một công việc rất đơn giản, nhưng có lẽ vì quá đơn giản, cho nên ít người chịu làm và thực tập. Nghĩa là: khi ta làm việc gì cũng làm hết lòng mình.
Hết lòng tức là không phải chỉ bằng thân và miệng mà thôi, mà còn phải làm với tất cả sự chín chắn trong tư duy, từ một tấm lòng hết mình trong ý niệm thiện, từ những công việc đơn giản nhất.
Phật dạy: “Khi đi thì biết đi, khi đứng thì biết mình đứng, khi ngồi biết mình đang ngồi, khi duỗi tay ra thì biết mình duỗi tay ra, khi mặc áo Tăng-già-lê thì biết mình mặc áo Tăng-già-lê…”.
Rõ ràng, lời dạy nói trên của Phật là nhằm chứa đựng toàn bộ bài học về sự tỉnh giác, sau này trở thành cốt lõi của phương pháp thực tập thiền hữu hiệu nhất.
Bởi vì, thực chất của thiền là tỉnh giác, là tâm luôn luôn hiện hữu, thì mới có thể nói sống với hết tâm mình, sống trọn vẹn trong giờ phút thiết thực hiện tại nhất. Bởi lẽ, quá khứ đã trôi qua, tương lai lại chưa đến, chỉ có pháp hiện tại chính là tuệ giác tại đây.
Nói sống hết mình trong hiện tại có ý nghĩa là như vậy; nó có giá trị đem lại lợi ích cho chính mình và cho cả người khác, xuất phát từ một thiện tâm được vận hành. Và như vậy, chỉ có sống hết lòng trong hiện tại, mới có thể sống đích thực, sống có hiệu quả và cũng mới biết tâm mình, và cách thức vận dụng tâm mình cho tốt đẹp nhất.
Thế nên, các thiền sư thường chỉ dạy: bạn hãy sống tỉnh giác mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn: “Gánh nước cũng là Thiền, bửa củi cũng là Thiền” - như là một sự thực tập đời sống hướng nội.
Lời dạy này bảo bạn rằng: khi gánh nước, hay bửa củi hoặc làm bất cứ việc gì, thì bạn phải tỉnh giác, trú tâm, cột tâm trên đối tượng công việc đó mà làm. Đó chính là một sự định tâm ở giai đoạn đầu tiên.
Cuộc sống hiện đại khiến con người chìm ngập trong muôn vàn công việc bên ngoài, rất dễ phân tâm; cho nên thân mệt mà tâm thì tán loạn, không chú tâm vào công việc đang làm.
Tâm ta cứ hay bị dong duỗi theo các đối tượng trong cùng một thời gian, hệ quả là công việc không đạt như những gì mình mong muốn.
Thí dụ: vừa ăn vừa nghĩ một chuyện khác, hay vừa xem sách vừa ngủ gật, hoặc vừa làm việc vừa tán chuyện gẫu…
Kết quả, chúng ta có thể không đạt hiệu quả trong công việc, hoặc rơi vào tình cảnh ăn không ngon, ngủ không yên giấc, làm việc thì cũng trễ nãi không biết bao giờ hoàn thành.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy: người học thiền trong những bước đi ban đầu, trước tiên, hãy tập sống hết lòng, hết mình trong từng công việc hiện tại. Đó cũng là một cách dán chặt tâm, cột tâm trên một đối tượng - bước đi đầu tiên của việc thực tập hành thiền tích cực.
Các bạn thử xem, sẽ thấy không dễ dàng đâu. Cứ đọc lại hai câu của cụ Nguyễn Công Trứ thì sẽ biết:
“Ở nhà lại muốn ra đi,
Ra đi lại nghĩ ở nhà khi hơn.”
Cụ Trứ ở nhà thì nghĩ chuyện ra đi, ra đi lại nghĩ chuyện ở nhà. Hay là câu trong truyện Kiều: “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường” thì sẽ rõ.
Thực ra, không có ma quỷ nào dẫn Kiều vào các chốn đoạn trường, mà chỉ vì quá nhiều tâm bất thiện từ trong môi trường hiện thực cuộc sống đã tác động vào Kiều, khiến nàng sống không tỉnh giác. Khi cần quyết định thì tâm Kiều lại nghĩ đâu đâu, cho nên cô Kiều mới phải lạc lối vào những chốn đoạn trường.
Vấn đề đặt ra là: tự thân mỗi người cần thực thi pháp điều tâm, biện tâm và kiểm soát tâm trong đời sống thường nhật. Khái niệm tâm của đạo Phật bao gồm cả tình cảm, lý trí và ý chí.
Khi mắt nhìn thấy sắc, thí dụ thấy cái bàn, sách Phật gọi đó là nhãn thức, đây cũng là tác dụng của tâm thức nhưng không thông qua con mắt. Chúng ta cũng có thể nói như vậy về các giác quan khác như tai, lưỡi, thân. Nhà Phật gọi chung là trần, sách Phật còn dung hợp từ khách trần, để nói những sự vật, hiện tượng như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… đều là khách quan, ở bên ngoài chúng ta.
Do căn tiếp xúc với trần mà nảy sinh ra tâm thức hay thức phân biệt. Nhưng cần chú ý là: khi nhận biết một đối tượng nào đó, thí dụ cái hoa, cái bàn thì thông thường đó không phải là một sự nhận biết thuần túy.
Kèm theo đó, có những cảm giác vui hay không vui. Nếu vui thì yêu thích, không vui thì ghét bỏ. Vui, yêu thích; không vui, ghét bỏ - cũng đều là hoạt động của tâm.
Chính những hoạt động của tâm như vui, yêu thích, không vui, ghét bỏ dẫn tới những ý muốn: muốn có cái mình ưa thích, muốn loại bỏ cái mình ghét.
Ý muốn này cũng là một hoạt động của tâm. Sách Phật thường gọi là tác ý (Cetana). Bởi vì do có ý muốn - vui hay không vui, yêu thích hay ghét bỏ - mà nảy sinh ra những ý nghĩ, lời nói và hành động tương ứng.
Anh thích cái hoa, anh sẽ có những lời nói khen cái hoa, sẽ có những cử chỉ lại gần hoa, ngửi hoa, bẻ hoa… và ngược lại.
Thực tế cho thấy: người thiếu chánh niệm, tỉnh giác, thường buông lỏng cho các niệm nối đuôi nhau xuất hiện trên bình diện ý thức một cách tự phát, ít khi dừng lại suy nghĩ xem mình đang nghĩ gì, nghĩ như vậy là đúng hay sai, thiện hay ác.
Nghệ thuật điều tâm của đạo Phật chính là ở chỗ biết “dừng lại”, sách Phật gọi là chỉ, và trên cơ sở chỉ, quán xem đó là niệm gì, niệm ấy đúng hay sai, thiện hay ác. Đó là thuyết “ba niệm” của Thiền.
Sau niệm thứ nhất, đến niệm thứ hai nhận mặt và đặt tên cho niệm thứ nhất.
Thí dụ, nếu là tham thì biết là tâm tham; nếu là si thì biết đó là tâm si; nếu tán loạn thì biết là tâm tán loạn; nếu định tĩnh thì biết đó là tâm định tĩnh...
Và niệm thứ ba đánh giá niệm thứ hai là thiện hay ác, đúng hay sai.
Từ niệm thứ tư, người tu hành phải có một nỗ lực nội tâm lớn để:
Tăng trưởng niệm thiện, nếu đã có;
Có được niệm thiện, nếu chưa có;
Trừ bỏ niệm ác, nếu đã có;
Tránh niệm ác, nếu chưa có.
Phật gọi bốn nỗ lực này là Tứ chánh cần, tức là bốn siêng năng chân chính.
Các niệm được quan sát như vậy, niệm này diệt, niệm kia sinh. Không bao giờ có hai niệm cùng tồn tại một lúc, một khoảnh khắc (sát-na).
Như vậy, niệm thiện không thể cùng tồn tại với niệm ác, và ngược lại cũng như vậy. Nghệ thuật điều tâm là ở chỗ làm cho trong dòng niệm luôn luôn chỉ có niệm thiện, niệm ác không còn chỗ đứng.
Nếu có một niệm ác xuất hiện, thì lập tức niệm thứ hai nhận mặt được nó ngay và xua đuổi nó tức thì. Kinh An Trú Tầm, Phật giảng 5 biện pháp xua đuổi, hạn chế niệm ác như sau:
Lấy niệm thiện xua đuổi niệm ác. Như lấy niệm từ bi xua đuổi niệm sân giận.
Phật lấy ví dụ người thợ mộc khéo léo dùng cái niệm này (niệm thiện) đánh bật một cái niệm khác (niệm ác). Nhận thức rõ hậu quả tai hại của niệm ác để xua đuổi nó đi.
Phật ví dụ một người đeo xác con chó xung quanh cổ, thấy sợ hãi và vứt bỏ đi.Quên đi, đừng chú ý tới niệm ác nữa.
Phật lấy ví dụ một người không muốn thấy một vật gì đó, bèn nhắm mắt lại, không nhìn. Hãm chậm lại dòng niệm ác, khiến cho nó dần dần tan biến.
Phật ví dụ một người đang chạy, nghĩ rằng hãy đi chậm, khi đứng nghĩ rằng mình hãy ngồi lại. Và khi ngồi, nghĩ rằng mình hãy nằm xuống....Dùng nghị lực xua đuổi niệm ác đi.
Điều tâm là lấy tâm chế ngự tâm, lấy tâm thiện chế ngự tâm ác, khiến cho tâm trở nên thuần thiện. Và một khi tâm đã thuần thiện thì sẽ trở nên nhu nhuyễn, dễ sử dụng, chứ không còn tán loạn như trước nữa.
Trong tiến trình rèn luyện tâm, cần chú ý tới bốn điều:
1. Trên bình diện ý thức, bao giờ cũng chỉ có một ý niệm tồn tại, không thể có hai niệm cùng một lúc (sát-na).
2. Niệm này diệt, niệm khác mới sinh và thay vào.
3. Niệm ác (niệm 1) được niệm tiếp theo (niệm 2) nhận mặt là ác, là xấu, thì sẽ mất đi và không xuất hiện lại ở niệm tiếp theo.
4. Niệm thiện mạnh hơn niệm ác, cũng như ánh sáng mạnh hơn bóng tối. Một cái hầm dù tối tăm hàng trăm ngàn năm, nhưng một ngọn đèn được đưa vào thì lập tức sáng ngay.
Rõ ràng, pháp điều tâm chính dựa trên sự nhận thức và vận dụng bốn điều nói trên. Trong quá trình tu tập, những niệm ác dần dần vơi đi, các tạp niệm cũng bớt xuất hiện, tư tưởng dễ tập trung hơn, dễ vào định hơn.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao niệm Phật mà tâm chẳng được quy nhất?
Phật giáo thường thứcNiệm Phật điều cần yếu là thường xuyên đặt mình vào trường hợp sắp chết, sắp đọa địa ngục thời không khẩn thiết cũng tự khẩn thiết. Dùng tâm sợ khổ để niệm Phật, ấy là “xuất khổ diệu pháp đệ nhất” cũng là “tùy duyên tiêu nghiệp diệu pháp đệ nhất”. Tâm niệm Phật sở dĩ chẳng qui nhất là do lỗi của tâm đối với sự sanh tử chẳng tha thiết.
Hai cách để chuyển hóa cảm xúc tiêu cực trong ta
Phật giáo thường thứcHỏi: Có cách nào đi thẳng vào con đường tu tập của mình một cách tốt hơn khi đối diện trước những nỗi buồn, những cảm xúc tiêu cực không?
Muốn tâm thanh tịnh thì hãy niệm Phật
Phật giáo thường thứcNgười đời phần nhiều không tin pháp môn niệm Phật, nói một câu niệm Phật thì tác dụng chỗ nào? Không biết một câu A Di Ðà Phật có thần lực không thể nghĩ bàn, trị được hết thảy tâm bệnh phiền não.
Xem thêm















