Thứ, 12/10/2015, 14:40 PM

Tìm hiểu về Giáo lý Duyên Khởi

Trong bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 03 – 2015 (132), chúng ta đã tìm hiểu một cách tổng quát về giáo lý Duyên Khởi. Đến đây chúng ta đi sâu vào nội dung giáo lý này.

Giáo lý Duyên Khởi có nội dung quan trọng hàng đầu là cách lý giải về 12 chi phần nhân duyên. 12 nhân duyên vận hành chuyền níu nhau khiến chúng sinh bị sinh tử luân hồi. 

Qua sự khám phá đó, chúng ta nắm được chìa khóa có thể bẻ gãy xiềng xích nhân duyên khổ đau, đồng thời tu tập các pháp đưa đến Niết bàn, giải thoát.

1. Ý nghĩa 12 chi phần Duyên khởi

Vô Minh: Không biết chân lý, không biết con đường đi đến giải thoát tất cả khổ đau trong ba cõi, sáu đường. Chân lý ở đây là Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên. Theo Thanh Tịnh Đạo Luận, vô minh là không biết khổ, không biết nguyên nhân của khổ, không biết khổ diệt, không biết con đường đưa đến khổ diệt. Không biết quá khứ, vị lai, không biết Duyên Khởi và các pháp Duyên Khởi.

Hành: Hành vi, tạo tác, hành động có tác ý. Hành là động cơ tạo nghiệp thuộc về tư tâm sở. Do vô minh mà có hành. Vì không sáng suốt cho nên tạo các nghiệp thiện, bất thiện làm nhân tái sinh trong ba cõi. Hành có ba loại: thân hành, khẩu hành và ý hành. Trong ba hành trên, ý hành có giai trò quan trọng hàng đầu và chi phối hai hành còn lại như kinh Pháp Cú Phật dạy: “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ ý tạo”.

Thức: Nhận thức, phân biệt. Có sáu thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức. Thức có vai trò nhận thức, phân biệt các pháp theo vô minh, sai lầm, điên đảo. Ngoài ra thức còn làm nhiệm vụ thức tái sinh, nó làm động lực chuyển tiếp từ đời sống nầy sang đời sống kế còn gọi là thức tái sinh hay kiết sinh thức. Thức vừa làm động cơ tái sinh vừa mang những tập khí của vô minh, hành trong quá khứ và biểu hiện nó trong đời hiện tại.

Danh Sắc: Danh là phần tâm lý gồm Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thắng Pháp Tập Yếu cho là Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư. Sắc là phần vật chất, gồm có Tứ Đại và Tứ Đại Sở Tạo. Danh sắc là sự kết hợp giữa tinh thần và vật chất để hình thành một chúng sinh. Danh sắc có ý nghĩa duyên sinh đặc biệt giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần. Trong 12 nhân duyên, Danh Sắc hàm chứa sự hiện hữu sơ khai của một sinh mạng. Đồng thời Danh Sắc còn bao hàm cả mọi hoạt động của các chi phần duyên khởi còn lại hay toàn bộ đời sống của một chúng sinh.

Lục Nhập: Sáu cánh cửa tiếp nhận thế giới bên ngoài. Lục nhập có sáu: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý căn. Sáu cơ quan nầy tiếp nhận sáu Trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Như Nhãn căn ghi nhận hình ảnh, Nhĩ căn tiếp nhận âm thanh..v.v..Trong sáu căn, 5 căn đầu tiếp nhận một lĩnh vực riêng, còn ý căn có thể dung nhiếp các đối tượng của 5 trần còn lại.

Xúc: Sự xúc chạm của các cơ quan cảm giác với các trần cảnh. Xúc là sự kết hợp giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần. Căn và Trần là phần vật chất. Tinh thần gồm thức và các yếu tố tâm lý khác. Phật dạy phải có đủ ba điều kiện thì xúc mới sinh khởi: “ Do duyên con mắt và các sắc, Nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ hội nên xúc khởi. ” Duyên theo sáu căn nên có sáu xúc là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý xúc.

Thọ: Cảm giác, cảm thọ. Thọ do xúc sinh. Khi các giác quan tiếp xúc với các trần cảnh thì sinh cảm thọ. Thọ thuộc về yếu tố tâm lý. Do sáu xúc nên có sáu thọ là Nhãn thọ, Nhĩ thọ..v.v. Còn nếu chia theo cảm giác thì có ba thọ : khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Ngoài ra thọ cũng có thể phân làm 5 là khổ thọ, lạc thọ, xã thọ, hỷ thọ và ưu thọ. Trong năm thọ trên, ba thọ đầu thuộc về thân, hai thọ sau thuộc về tâm.
Tìm hiểu về Giáo lý Duyên Khởi 1
 
Ái: Sự ưa thích, say mê, đắm nhiễm các đối tượng do sáu trần mang lại. Ái phát sinh từ các cảm thọ. Các cảm thọ vui, khả ái, khả lạc, khả hỷ thường làm sinh khởi tâm ái. Căn cứ vào sáu trần mà có sáu ái như Sắc ái, Thinh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái. Tâm ái bao trùm cả ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Sự ưa thích 5 trần ở cõi người hoặc cõi trời Dục giới gọi là dục ái, đắm nhiễm các thiền chứng của cõi trời Sắc giới là Sắc ái, còn ở Vô Sắc Giới là Vô Sắc ái.

Thủ: Tâm bám chặc, nắm giữ đối tượng ưa thích. Thủ giống như hình ảnh của một ngưòi ôm khư khư một vật không chịu buông bỏ. Thủ có hai hình thức được chia làm bốn loại. Thủ do ưa thích các dục gọi là Dục thủ; Thủ do bám chấp các lý thuyết sai lầm như Ngã luận thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ. Thủ là tâm ái đã được huân tập rất kiên cố đến nỗi tạo thành một sức mạnh lôi kéo chúng sinh vào cảnh giới tương ưng.

Hữu: Do duyên Thủ mà có Hữu. Hữu là quá trình tích lũy, thu thập nghiệp lực để hình thành kiếp sống tương lai. Hữu cũng chính là nghiệp đưa đến tái sinh và hình thành các quả dị thục khổ vui của chúng sinh. Thế nên Hữu có hai loại Nghiệp hữu và Sinh hữu. Nghiệp hữu tích lũy nghiệp đưa đến kết quả khổ vui, còn Sinh hữu quyết định cảnh giới tái sinh trong tương lai. Nói đến Hữu thì gồm cả hai loại Nghiệp hữu và Sinh hữu. Ngoài ra, tùy theo khuynh hướng tạo nghiệp mà hữu chia ra làm ba thứ Dục hữu, Sắc hữu và Vô Sắc hữu.

Sinh: Do có Hữu nên có sinh. Một khi đã tạo nghiệp hữu nhất định phải bị nghiệp lôi kéo vào vòng sinh tử luân hồi. Chúng sinh chết rồi theo nghiệp tái sinh trong tam giới lục đạo gọi là sinh. Sinh là sự hình thành một đời sống mới, sự tạo thành thân năm uẩn, sự xuất hiện hợp thể danh sắc. Từ sự khởi đầu của sinh mà con người phải chịu những quả khổ vui trong đời sống hiện tại. Đồng thời tiếp tục tạo các nhân sinh tử ở tương lai.

Lão Tử: Do có sinh nên có già chết. Bất cứ ai, một khi có sinh nhất định phải có ngày chung cuộc. Già là trạng thái suy thoái, xuống cấp của cơ thể biểu hiện qua các tướng trạng như da nhăn, má cóp, răng rụng, mắt mờ, tai điếc..v.v... Tuy nhiên không phải ai cũng trải qua giai đoạn già. Có người chết còn rất trẻ và có thể chết bất cứ lúc nào. Thế nên chết là một điều chắc chắn. Cái chết đưa đến sự tan rã, hoại diệt thân năm uẩn, sự chấm dứt đời sống, sự phân ly hợp thể danh sắc. Nhưng chết không phải là hết, nó chỉ chấm dứt thân ngũ ấm hiện tại và khởi đầu cho một sự sống mới.

2. Bốn cách trình bày của Phật về Duyên khởi

Giáo lý duyên khởi rất thâm sâu mầu nhiệm thuộc về tuệ quán. Chúng ta nếu dụng tâm không sâu sắc ắt khó mà lãnh hội. Thế nên khi trình bày giáo lý này, đức Phật cũng tùy duyên uyển chuyển sao cho hợp với căn cơ của người nghe. Đức Phật có bốn cách giảng dạy duyên khởi khác nhau: từ đầu đến cuối, từ cuối đến đầu, từ giữa đến cuối và từ giữa đến đầu. Vì sao đức Phật trình bày giáo lý Duyên khởi đến bốn cách. Ngài Phật Âm đã lý giải điều nầy trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo: “Bởi vì duyên sinh hoàn toàn có lợi ích, và bởi Ngài có được thiện sảo trong sự giáo dục. Duyên sinh hoàn toàn có lợi ích, dù khởi từ bất cứ khởi điểm nào trong bốn khởi điểm nói trên, duyên sinh cũng chỉ đưa đến thể nhập chính đạo ”. [1, 884]

2.1. Từ đầu đến cuối

Giáo lý Duyên khởi bắt đầu từ vô minh đến già chết như sau: “vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc ...; hữu duyên sinh; sinh duyên già chết...”[2,14] đức Phật trình bày chi phần vô minh trước tiên trong chuỗi 12 chi phần nhân duyên để nói lên sự nguy hiểm của vô minh và tầm quan trọng của việc giác ngộ. Trước nhất Ngài chỉ dạy về nguyên nhân quá trình hiện hữu của đời sống. Đời sống hiện hữu của chúng ta với những khổ đau của kiếp người, nào sinh, già, bệnh chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; nào sự tái sinh trong Tam giới, Lục đạo đều có nguồn gốc từ vô minh. Có vô minh tức có tái sinh, có đau khổ. Ở đây Phật nói lên cái nguyên nhân căn để của khổ đau để cảnh tỉnh chúng ta. Ngài chỉ đích danh vô minh như khởi điểm của mọi tiến trình sinh tử, như xuất phát điểm của 12 chi phần duyên khởi. Mặc dù vô minh cũng mang tính duyên sinh, không phải nguyên nhân đầu tiên. Tuy vậy, vô minh vẫn đóng một vai trò rất lớn trong toàn bộ 12 chi phần duyên khởi, một trong những động cơ chính tạo nghiệp sinh tử. Phật dạy duyên khởi bắt đầu từ vô minh là có mục đích để người nghe thấy sự nguy hiểm của tâm lý si mê lầm lạc tai hại biết chừng nào. Chính tâm si mê không biết chính đạo đã khiến cho chúng sinh phải luân chuyển trong lục đạo luân hồi:

“Đêm dài cho kẻ thức 
Đường dài cho kẻ mệt 
Luân hồi dài kẻ ngu 
Không biết chân diệu pháp”. [3,22]

Thứ hai, đức Phật có dụng ý thuyết minh tầm quan trọng của chính pháp hay giác ngộ chính pháp. Bởi vô minh có từ vô thủy và chúng sinh không thể thoát khỏi tình trạng vô minh nếu không có đức Phật ra đời. Các vị đạo sư khác giảng dạy con đường đưa đến giải thoát không trọn vẹn, hoặc chỉ đạt được hạnh phúc tương đối trong cõi người, trời mà thôi. Chỉ đức Phật ra đời với chính pháp xuất thế vi diệu mới phá tan bóng tối vô minh lầm lạc từ vô thủy, khiến chúng sinh giác ngộ, đạt đến niềm vui hạnh phúc Niết bàn tuyệt đối. Thế nên đức Thế Tôn từng tuyên bố: “Chỉ trong giáo pháp của Như Lai hay đệ tử của Như Lai mới có đệ nhất sa môn, đệ nhị sa môn, đệ tam sa môn và đệ tứ sa môn. Các ngoại đạo khác không có. ”[4,151-152]

Hoặc sau khi trình bày tiến trình sinh tử qua 12 chi phần nhân duyên như kết quả của nhân quả khổ đau, đức Phật trình bày con đường giải thoát khổ đau bằng khởi điểm : Phật xuất hiện ra đời, thuyết pháp, người có niềm tin, đến nghe pháp .v.v... cho đến chứng quả A la hán.

Tóm lại, chúng sinh vì bị vô minh che ám không biết con đường chính, thế nên đức Phật mới xuất hiện ra đời. Sự ra đời của đấng Giác Ngộ cũng không ngoài hai mục đích chuyển mê, khai ngộ cho chúng sinh. Làm cho mọi người ra khỏi vô minh khiến minh sinh khởi là bản hoài của chư Phật. Mọi sự giải thoát an vui theo Phật giáo đều bắt đầu từ Chính kiến, tức có trí tuệ về Tứ đế hay Duyên khởi.

2.2. Từ cuối đến đầu

Đức Thế Tôn trình bày lý duyên khởi lấy già chết làm khởi điểm, rồi từ đó truy tìm về cái nguyên nhân căn bản vô minh. Trong kinh Tương Ưng, đức Phật nói lên tiến trình duyên khởi từ thực trạng khổ đau của già chết như sau: “Này các Tỷ kheo, ta lại suy nghĩ như sau : cái gì có mặt, già chết có mặt. Do duyên gì, già chết sinh khởi. Do duyên sinh, già chết có mặt, do duyên sinh, già chết sinh khởi...Rồi nầy các Tỷ kheo, ta lại suy nghĩ như sau: cái gì có mặt, hành có mặt. Do duyên gì, hành sinh khởi. Do duyên vô  minh, hành có mặt; do duyên vô minh, hành sinh khởi. ” [5, 24 -26]

Qua lối trình bày trên, đức Phật muốn cho chúng ta nhận thức thực trạng khổ đau đang hiện hữu với tất cả những hệ luỵ của kiếp người bằng chi phần già chết. Cách nầy tương tự như cách sắp đặt Khổ đế trước rồi mới đến Tập đế trong giáo lý Tứ đế. Từ thực tế khổ đau của kiếp sống nhân sinh mà giác ngộ lần ra cái nguyên nhân căn để của nó là điều không dễ. Thật ra đây là con đường giác ngộ của các bậc có chí hướng thoát trần thượng sĩ và có căn cơ đặc biệt như các vị Phật Độc giác hoặc Bồ tát. Các ngài chỉ cần nhìn hoa rơi lá rụng, thấy được cái bất toàn, vô thường, vô ngã, khổ đau của kiếp sống nhân sinh và thế giới mà giác ngộ được lý duyên sinh, nhận ra cái bí mật của 12 nhân duyên. Đức Phật khi còn ở địa vị Bồ tát cũng giác ngộ bằng cách ấy. Thật vậy, từ thực trạng khổ đau của kiếp sống luân hồi mà phăng tìm đến cái nguồn căn vô minh, nếu không phải bậc đại trí, vô sư tự ngộ như Phật Độc giác hay Phật Chính Đẳng Giác thì không thể làm nổi. Thế nên, cách trình bày lý duyên khởi từ cuối đến đầu không phổ biến trong kinh tạng Nikaya. Các vị tu tập theo hạnh Thinh Văn chủ yếu nghe Phật giảng dạy lý duyên khởi bắt đầu từ vô minh đến già chết là phổ biến nhất. Tuy nhiên, lối giảng dạy duyên khởi xuất phát từ già chết cũng có chủ tâm của Thế Tôn. Cái gì cũng có nguyên nhân, nếu quyết tâm thì nhất định sẽ tìm được cái nhân của nó. Đời sống già bệnh sầu bi có là do sinh, không sinh thì nhất định không có các thứ khổ đó. Cứ như thế mà truy dần đến cái cội rễ vô minh. Đó là lý do đức Phật dạy chúng ta quán lý Duyên khởi theo lối hoàn diệt từ già chết đến vô minh, ở đây Ngài dạy cho chúng ta biết cách suy luận theo lối duyên sinh, nhân quả. Chính lối suy luận nầy đã cho người ta có một cái nhìn giác ngộ về duyên khởi một cách trọn vẹn. Đây cũng chính là con đường đưa đến thể nhập chính tri kiến, phá tan bóng tối vô minh lầm lạc. Kinh Chính Tri Kiến, tôn giả Xá Lợi Phất dành phần lớn nội dung nói về việc chứng được chính tri kiến từ duyên khởi: “ Chư hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết, tuệ tri tập khởi của già chết, tuệ tri đoạn diệt của già chết, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết. Chư hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chính tri kiến. Thế nào là già chết,...Già như vậy, chết như vậy, chư Hiền, như vậy là già chết. Từ sự tập khởi cửa sinh, có sự tập khởi của già chết; từ sự đoạn diệt của sinh, có sự đoạn diệt của già chết. Thánh Đạo Tám Nghành nầy là con đường đưa đến sự đoạn diệt của già chết. ”[6,117-118]

Cứ như thế, ngài Xá Lợi Phất trình bày cho đến chi phần vô minh. Điểm đặc biệt ở đây là chúng ta có thể thấy giáo lý Duyên khởi được thuyết giảng qua hình thức Tứ đế. Điều đó chứng tỏ giáo lý Duyên khởi và giáo lý Tứ đế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu mối tương quan nầy ở phần sau. Tóm lại, đức Thế Tôn trình bày lý Duyên khởi từ già chết đến vô minh để nói lên kinh nghiệm giác ngộ của chư Phật. Đồng thời cũng chỉ cho chúng ta cách quán sát, suy luận theo tiến trình duyên khởi, nhân quả. Chính lối quán sát nầy khiến biết bao người thành tựu chính kiến, phá tan vô minh chấp thủ ngàn đời, đạt được giải thoát, an vui.

2.3. Từ giữa đến cuối

Phật trình bày lý Duyên khởi từ chi phần Lục nhập đến chi phần già chết như sau: “ Do duyên con mắt và các sắc, Nhãn thức sinh khởi lên. Do ba cái tụ hợp nên có xúc; do duyên xúc nên có thọ; do duyên thọ nên có ái; do duyên ái nên có thủ; do duyên thủ nên có hữu; do duyên hữu nên có sinh; do duyên sinh nên có già chết sầu bi khổ ưu não sinh khởi. ”[7,134] Cũng như thế đối với các căn còn lại. Hoặc có khi đức Phật trình bày khởi điểm duyên khởi từ chi ái: “ Nầy các tỷ kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp thủ, ái được tăng trưởng. Do duyên ái nên thủ có mặt. Do duyên thủ nên hữu có mặt. Do duyên hữu nên sinh có mặt. Do duyên sinh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh khởi. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn nầy tập khởi.” [8,154]

Với cách trình bày lý Duyên khởi từ giữa đến cuối, đức Phật muôn nhấn mạnh động cơ chủ yếu của vòng tái sinh đau khổ chính là ái dục. Thật vậy, trong nhiều kinh điển, đức Thế Tôn xem vô minh như động lực gián tiếp và ái được xem như chủ nhân chính của nghiệp sinh tử: “ Chính ái nầy đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ nầy chỗ kia; tức là dục ái, hữu ái và vô hữu ái. ”[6,556]

Lại nữa, trong 12 chi phần duyên sinh, chi ái đóng vai trò chủ động trong việc tạo nghiệp. Vì thế đức Phật xem ái chính là khởi điểm của tiến trình duyên khởi khổ đau. Có ái tức có khổ đau, chấm dứt ái là chấm dứt khổ đau. Toàn bộ phương pháp tu hành của Phật giáo cũng nhầm mục đích đoạn diệt tham ái. Sở dĩ chúng ta còn tiếp tục tái sinh, 12 chi phần duyên sinh tiếp tục vận hành là do ái luôn luôn được nuôi dưỡng và tăng trưởng. Cũng giống như một cái cây luôn được cung cấp đủ nước thì nó tiếp tục sinh trưởng, một đống lữa luôn được cung cấp nhiên liệu thì nó tiếp tục cháy mãi. Quả thật, ái thường được vô minh hay các chi phần khác nuôi dưỡng nên luôn được sung mãn. Vì người vô trí không nhận chân được ái làm động cơ của mọi tiến trình đau khổ, nên liên tục nuôi lớn nghiệp ái cuối cùng phải tái sinh vào ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu giác ngộ được ái, nguồn cội của sống chết khổ đau rồi tu hành chấm dứt nó là khởi đầu của con đường giải thoát. Có thể nói điểm đột phá để chấm dứt khổ đau, bẽ gãy xiềng xích duyên khởi phải trải qua hai giai đoạn quan trọng : giác ngộ lý Duyên sinh hay giáo lý Tứ Diệu Đế rồi sau đó tu tập đoạn tận tham ái. Giác ngộ lý Duyên sinh tức đoạn trừ Kiến hoặc, tu tập chấm dứt tham ái phiền não là đoạn trừ Tư hoặc. Kiến tư hoặc không còn thì hoàn toàn ra khỏi sinh tử khổ đau như lời Phật dạy : “ Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; ... do sinh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. ”[9,10]

Tuy ái làm động lực cho sinh tử, là phần năng động nhất trong chuỗi 12 chi phần nhân duyên, nhưng ái cũng mang tính duyên sinh thế nên nó cũng hình thành và hoại diệt theo các điều kiện. Duyên sinh ra ái là thọ. Nói rằng đoạn diệt tham ái là khởi điểm của sự tu hành, nhưng thật sự chúng ta phải tu tập từ ngay chi phần thọ. Không có thọ thì ái cũng không thành tựu. Khi các cảm thọ khởi lên, chúng ta giác tỉnh không chạy theo, không đắm nhiễm thì ngay nơi đó ái bị đoạn trừ và toàn bộ khổ uẩn cũng đoạn diệt theo. Đây chính là cốt lõi của sự tu hành đưa đến đoạn tận khổ đau trong giáo lý của đức Phật. Chúng ta sẽ bàn kỹ vấn đề nầy ở phần tu tập. Như vậy, đức Thế Tôn trình bày lý duyên khởi từ giữa đến cuối nhằm mục đích nhấn mạnh cái động cơ chủ yếu của duyên sinh đưa đến sinh tử. Để từ đó chúng ta biết đâu là điểm xuất phát của sự tu tập. Điểm xuất phát ấy chính là đoạn trừ vô minh và tham ái vậy.

2.4. Từ giữa đến đầu

Được đức Thế Tôn trình bày như sau trong kinh Trung Bộ và nhiều kinh khác : “ Nầy các Tỷ kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sinh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sinh. Thế nào là bốn ? Đoàn thực thô hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và thứ tư là thức thực.Và nầy các tỳ kheo, bốn món ăn nầy, lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn nầy lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm sinh chủng và lấy ái làm nguyên nhân...”.Cứ như thế cho đến chi phần vô minh. [10,570-572]

Phần trình bày lý Duyên khởi trên đức Phật đưa ra bốn loại thức ăn như kết quả của vô minh và tham ái. Bốn loại thức ăn nầy làm nguyên liệu để duy trì bánh xe sinh tử. Thay vì ái duyên thủ, thủ duyên hữu..v.v... thì được thay thế bằng bốn loại thức ăn là Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực và Thức thực. Đoàn thực duy trì thân vật chất tứ đại, còn ba món còn lại thì duy trì, nuôi dưỡng nghiệp hữu lậu trong hiện tại để đưa đến tái sinh trong tương lai. Thế nên kinh nói bốn loại thực phẩm nầy có công năng giúp cho an trú các loài hữu tình đã sinh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sinh. Bốn món thức ăn trên được phát sinh, nuôi dưỡng bởi nhân duyên tham ái. Có tham ái nhất định có bốn loại thức ăn. Nếu truy tầm tiếp đến tận gốc thì nó có nguyên do sâu xa từ vô minh. Như vậy, đức Phật trình bày lý duyên khởi phát xuất từ bốn loại thức ăn đến vô minh để nói lên một sự thật rằng : vô minh còn tồn tại, tham ái còn hiện hữu; tham ái còn hiện hữu, thức ăn duy trì nghiệp sinh tử vẫn tiếp tục. Điều đó chứng tỏ rằng vô minh, tham ái luôn luôn là động cơ chính của nghiệp, của tiến trình duyên khởi sinh tử khổ đau. Muốn chấm dứt vòng duyên sinh đau khổ nầy, yếu tố tiên quyết vẫn là đoạn diệt vô minh và tham ái. Đây là điểm nhất quán trong mọi cách trình bày về giáo lý Duyên khởi của Thế Tôn.

Chúng ta có thể nhận định một cách tóm tắt về các cách trình bày giáo lý Duyên khởi của Thế Tôn như sau:

Từ gốc đến ngọn nói lên diễn tiến qui luật từng tự phát sinh từ căn bản vô minh ra đời sống hiện hữu. Cách nầy đức Phật nhấn mạnh đến cái nguyên nhân căn để của duyên sinh khổ đau phát xuất từ vô minh. Đồng thời nói lên tầm quan trọng của việc tiếp thu Chính pháp hay chứng ngộ Chính kiến phá trừ vô minh. Lối trình bày nầy khá phổ biến trong kinh điển về duyên khởi.

Từ ngọn đến gốc, nói lên từ hiện trạng khổ đau mà truy tìm về cội rễ của nó. Về mặt lịch sử, đây là truyền thống giác ngộ của chư Phật. Ngoài ra lối giảng dạy nầy sẽ khiến phát sinh trí tuệ bởi hình thức suy luận theo cách duyên sinh, nhân quả.

Từ giữa đến ngọn, đức Phật muốn nhấn mạnh ái đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tạo nghiệp sinh tử. Bên cạnh đó, đức Phật cũng khẳng định việc tu tập chấm dứt tham ái có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đưa đến giải thoát mọi khổ đau. Cách trình bày nầy khá phổ biến trong kinh tạng và có ý nghĩa rất lớn về tu tập.

Từ giữa đến đầu, thông qua bốn loại thức ăn như kết quả của khổ đau, đức Phật chỉ ra cái nguyên nhân sâu xa của nó có nguồn gốc từ tham ái và vô minh. Tham ái đóng vai trò trực tiếp tạo nghiệp sinh tử, còn vô minh có vai trò gián tiếp. Do vậy, muốn giải thoát khổ đau hay cắt đứt vòng duyên sinh ắt phải đoạn trừ vô minh, tham ái. Đây là điểm đúc kết quan trọng về giáo lý Duyên khởi của Thế Tôn.

3. Những cách giải thích khác nhau về mười hai chi phần duyên khởi

Giáo lý Duyên khởi rất thâm sâu và có nhiều tầng ý nghĩa. Tùy theo góc độ tu tập, nghiên cứu của từng trường phái mà sự lý giải về 12 duyên khởi có sai khác. Tuy nhiên cách lý giải nào cũng có một đặc điểm chung là giải thích sự vận hành theo qui luật của các pháp hữu vi nói chung và sự hiện hữu của con người nói riêng. Bởi vì duyên sinh là pháp tính của mọi hiện hữu. 12 nhân duyên là pháp tắc tác thành nên sự hiện hữu của con người. Sự hiện hữu nầy có thể hiểu qua ba khoảng thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. Hoặc chỉ trong kiếp sống hiện tại, hay chỉ trong một sát na. Sau đây là một vài cách lý giải tiêu biểu.

3.1. Nhân quả ba đời

Cách giải thích nầy nhầm chứng minh sự sinh khởi của 12 nhân duyên kéo dài từ quá khứ đến hiện tại và còn tiếp tục ở tương lai. Mười hai nhân duyên được hiểu qua hai cặp nhân quả, tương ưng với ba khoảng thời gian như bài kệ trong luận Thanh Tịnh Đạo :

“Gốc rễ của bánh xe là vô minh và ái dục 
Thời của nó là quá khứ, hiện tại, vị lai 
Thuộc về các thời nầy là
Hai, tám và hai, trong 12 chi ấy. ”[11, 711]

Hai chi vô minh, hành thuộc về quá khứ; tám chi thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu thuộc về đời sống hiện tại. Hai chi phần sinh và lão tử ở kiếp vị lai. Đó là ba thời, còn hai cặp nhân quả được hiểu như sau : vô minh và hành được xem như cái nhân trong quá khứ; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là quả khổ trong hiện tại. Đây là cặp nhân quả khổ thứ nhất. Ba chi ái, thủ, hữu là nhân khổ trong kiếp hiện tại và sinh, lão tử là quả khổ trong kiếp vị lai. Đây là cặp nhân quả thứ hai. Cách giải thích về nhân quả ba đời như thế tạo thành thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả rất nổi tiếng của Phật giáo.

Từ cách lý giải 12 nhân duyên sinh như trên, chúng ta thấy rằng đời sống sinh tử luân hồi của chúng sinh vốn vô cùng vô tận. Nhân quả cứ chuyền níu nhau tiếp tục sinh khởi qua ba thời không biết bao giờ chấm dứt. Vì cái nhân sinh tử khổ đau vẫn còn và luôn được nuôi dưỡng. Cái nhân ấy chính là vô minh, hành trong quá khứ dệt nên đời sống khổ đau hiện tại; rồi ái, thủ, hữu hiện tại lại tiếp tục tạo thành đời sống kế ở tương lai. Cứ như thế tiếp diễn đến vô cùng. Ngày nào vô minh, ái, hữu còn tồn tại thì bánh xe sinh tử vẫn tiếp tục xoay vòng. Điều đó nói lên tầm quan trọng của việc giải thoát vô minh tăm tối ngàn đời bằng trí tuệ siêu việt hay Chính tri kiến. Khi ấy vòng duyên khởi nhất định bị phá trừ, nghiệp hữu tiêu tan và Niết bàn hiện hữu. Vì vậy thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả là một phát hiện đầy trí tuệ của đạo Phật. Nó vừa chỉ ra nguyên nhân tồn tại, luân chuyển của nhân sinh đồng thời cũng cho chúng ta một nẻo đường đi đến giải thoát an vui bằng cách diệt trừ những nguyên nhân đau khổ ấy.

3.2. Kiếp sống nhân sinh

Đời sống hiện tại của chúng ta cũng trải qua 12 nhân duyên khởi kể từ khi mới nhập thai cho đến khi từ giã cõi đời. Do vô minh, hành trong quá khứ hình thành thức tái sinh đi vào thai mẹ. Đó là sự khởi đầu của một đời sống mới. Thức tái sinh kết hợp với tinh cha, huyết mẹ hình thành một hợp thể vật chất tinh thần Danh sắc. Danh sắc có thể xem như đời sống sơ khai của chúng sinh. Người mẹ thụ thai ở giai đoạn này. Phật dạy phải có sự hòa hợp giữa ba yếu tố tinh cha, huyết mẹ và hương ấm mới có thể thọ thai: “ Nầy các tỳ kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, người mẹ trong thời có thể thụ thai và hương ấm có hiện tiền. Có ba sự hòa hợp như thế thì bào thai mới hình hành. [12,582] Bào thai phát triển trong cơ thể người mẹ dần dần hình thành đầy đủ các căn gọi là giai đoạn lục nhập. Đến lúc trẻ biết bú là giai đoạn của xúc. Lớn hơn chút nữa, trẻ biết cảm nhận thế giới xung quanh, có cảm giác về các cảm thọ ưa thích, ghét bỏ các cảm thọ khó chịu là giai đoạn của thọ. Khi con người trưởng thành các căn phát dục đầy đủ rồi nảy sinh các tình cảm yêu ghét mạnh mẽ. Cái gì mình cảm thấy vừa lòng thích ý thì yêu mến không rời còn cái gì không thích lại sinh tâm chán bỏ. Đây là giai đoạn của ái vậy. Từ đây về sau con người cứ huân tập các nghiệp ưa ghét ngày càng nhiều. Nào chạy theo ngũ dục, tiền tài, danh lợi không bao giờ chán chính là giai đoạn hình thành các nghiệp thủ hữu. Và cuối cùng đến giai đoạn già chết rồi theo nghiệp thiện hay ác đi tái sinh trong tương lai.

Cách lý giải 12 nhân duyên diễn tiến trong một đời người trình bày phần trên tuy không thật sâu sắc, nhưng nó cũng cho chúng ta biết rằng chi phần duyên khởi nào nắm vai trò chủ đạo trong một giai đoạn nào đó của đời người. Chẳng hạn ba chi phần thức, danh sắc, lục nhập có vai trò chủ đạo trong buổi sơ khai của con người. Hai chi phần xúc, thọ hoạt động nhiều ở giai đoạn ấu niên; còn ái, thủ, hữu tăng trưởng mạnh mẽ trong thời kỳ thanh niên trở về sau. Qua sự phân tích, chúng ta thấy ở thuở ấu niên con người ít tạo nghiệp hơn. Người ta tạo nghiệp phần nhiều ở giai đoạn thanh niên trở về sau. Các chi phần ái, thủ, hữu hình thành sung mãn ở giai đoạn nầy đã chứng minh điều đó. Sự phân tích giáo lý 12 duyên khởi trong một đời người như vậy giúp chúng ta đánh giá được giai đoạn tạo nghiệp chủ yếu của con người. Nhờ đó chúng ta đưa ra những phương pháp giáo dục và tu tập hợp lý để ngăn chặn động cơ tạo nghiệp bất thiện cho từng giai đoạn cụ thể.

3.3. Hành động hiện tại

Có người nhìn lý thuyết duyên khởi thâm sâu, tế nhị hơn, ấy là thuyết duyên khởi trong mỗi hành động. Mười hai nhân duyên có thể được diễn tiến qua một quá trình hành động ngay hiện tại. Bất cứ một hành động nào như việc nhìn một bông hoa, sự hình thành một cơn giận, hay yêu ghét một người nào đó..v.v... đều chứa một diễn trình duyên khởi. Hành động có khi chớp nháng, có khi kéo dài, nhưng hành động nào cũng phải trải qua 12 nhân duyên. Do vô minh mới có tạo tác sai lầm. Do có sự vận hành nên sinh ra cái biết, từ đó có sự phân biệt chủ thể và khách thể. Tính biết hay tính phân biệt tự tạo ra hai khía cạnh của nó là tâm lý và vật lý ( danh sắc). Danh sắc tạo ra điều kiện và phương tiện để nó vận hành là lục nhập, gồm các căn bên trong và các cảnh giới tương ưng bên ngoài. Có trong có ngoài nên sinh ra sự tiếp xúc. Tiếp xúc sinh ra cảm thọ. Từ cảm thọ sinh ra sự ham muốn. Từ ham muốn sinh ra sự nắm giữ, chấp chặc, ràng buộc. Vì nắm giữ nên sinh cái hiện hữu, môi trường. Cái môi trường hiện hữu nầy tạo sự sinh. Và đã sinh thì có già, chết, hư hoại, diệt vong. ” [13.26] Cách giải thích 12 nhân duyên diễn tiến trong hành động hiện tại rất sâu sắc, phức tạp. Nhưng hoàn toàn phù hợp theo qui luật vận hành của tâm thức con người. Vì khi vô minh còn hiện hữu, con người còn điên đảo vọng tưởng, chấp ngã, chấp pháp là điều tất yếu. Lẽ dĩ nhiên hành, thức, danh sắc bị vô minh chi phối cũng chấp thủ sai lầm theo. Sự chấp thủ ấy tất nhiên phải hình thành theo các điều kiện duyên sinh từ xúc, thọ, ái, thủ, hữu... Cái gì có sinh ắt có diệt, cho nên một hành động nào cũng có lúc phải kết thúc. Để hình dung điều nầy, chúng ta có thể dùng một ví dụ rất nổi tiếng “Người ăn xoài” trong luận Thắng Pháp Tập Yếu: “Một người nằm ngủ dưới gốc cây xoài. Một trái xoài rơi xuống và lăn đến bên mình người ấy. Người ấy giật mình ngồi dậy và tìm biết cái gì đã làm mình giật mình thức giấc. Người ấy thấy trái xoài, lượm lên, ngửi và xem xét trái xoài. Khi được biết trái xoài đã chín, người ấy ăn trái xoài, ăn xong người ấy nằm xuống ngủ tiếp.” [14,11-12] Theo luận nầy phân tích thì người đang ngủ chỉ cho trạng thái vô minh tiềm ẩn, còn gọi là hữu phần hay tiềm thức. Ngồi dậy và tìm biết cái gì đã làm mình thức giấc chỉ cho tâm thức được kích thích thông qua các căn môn, ở đây cũng có nghĩa hành, thức sinh khởi. Việc thấy trái xoài chỉ cho sự sinh khởi của thức. Hành động lượm trái xoài chỉ cho tâm thức lãnh thọ sự tiếp xúc của ngoại vật, còn gọi là tiếp thọ tâm. Việc ngửi và xem xét trái xoài chỉ cho tâm thức tìm hiểu đốì tượng với kinh nghiệm quá khứ, gọi là suy đạt tâm. Xác định trái xoài đã chín tức xác định đối tượng theo sự hiểu biết của mình. Đây là xác định tâm. Ba tâm tiếp thọ, suy đạt, xác định cũng đồng nghĩa với sự sinh khởi các chi phần lục nhập, xúc, thọ. Hành động ăn trái xoài chỉ cho tâm xử sự với đối tượng. Đây chính là giai đoạn tạo nghiệp quan trọng nhất. Ái, thủ, hữu phát sinh trong giai đoạn nầy. Người kia nằm xuống ngủ tiếp chỉ cho kết thúc hành động ăn xoài đồng nghĩa với lão tử. 

Tóm lại, cách giải thích 12 duyên khởi trong hành động nhằm nhấn mạnh rằng dù bất cứ hành động nào hay bất cứ pháp hữu vi nào cũng vận hành theo qui luật duyên sinh. Con người hay hành động của con người cũng là pháp hữu vi thế nên cũng sinh thành và hoại diệt theo qui luật duyên sinh.

3.4 Trong từng sát na

Ngoài ra cũng có trường phái nhìn 12 nhân duyên qua một sát na hiện hữu. Cách nhìn nầy cực kỳ sống động, mầu nhiệm và vi tế. Theo quan điểm sát na hiện hữu, 12 nhân duyên không còn sinh khởi từng tự theo thời gian nữa mà chúng sinh khởi đồng thời. Một chi phần có mặt lập tức 11 chi phần kia có mặt. Nếu suy rộng ra, một pháp hiện hữu thì tất cả pháp đều hiện hữu. Cách giải thích nầy đã đưa chúng ta về định thức duyên khởi tổng quát : " Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái kia sinh... ”. Từ đó mở ra một chân trời mới, bao la, mầu nhiệm về giáo lý Duyên khởi. Thật vậy, lý thuyết trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm với thuyết “một là tất cả, tất cả là một” và thuyết nhân quả đồng thời của Pháp Tướng tông có lẽ cũng phát triển từ cách nhìn sâu sắc nầy. Không riêng Pháp Tướng hay Hoa Nghiêm, mà toàn bộ Phật giáo Đại thừa cũng hình thành và phát triển trên nền tảng giáo lý 12 nhân duyên. Nhưng với cái nhìn sâu sắc nhất, tế nhị nhất, mầu nhiệm nhất của chân lý duyên khởi.        

Còn tiếp...  
Minh Chơn
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5 năm 2015                
-                  
[1 884] Thích Nữ Trí Hải dịch , Thanh Tịnh Đạo  II , Nxb Tôn Giáo , Hà Nội , 2001
[2,14] Thích Minh Châu ,  kinh Tương Ưng  II , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh , 2003
[3,22] Thích Minh Châu , kinh Pháp Cú , Nxb Tôn Giáo , Hà Nội , 2000
[4,151-152] Thích Minh Châu , kinh Trung Bộ  I , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh, 1992
[5, 24 -26] Thích Minh Châu ,  kinh Tương Ưng  II , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh , 2003
[6,117-118] Thích Minh Châu , kinh Trung Bộ  I , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh, 1992
[7,134] Thích Minh Châu ,  kinh Tương Ưng  II , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh , 2003
[8,154] Thích Minh Châu ,  kinh Tương Ưng  II , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh , 2003
[9,10] Thích Minh Châu ,  kinh Tương Ưng  II , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh , 2003
[10,570-572] Thích Minh Châu , kinh Trung Bộ  I , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh, 1992
[11, 711] Thích Nữ Trí Hải dịch , Thanh Tịnh Đạo II , Nxb Tôn Giáo , Hà Nội , 2001
[12,582] Thích Minh Châu , kinh Trung Bộ  I , VNCPHVN ấn hành , Tp. Hồ Chí Minh, 1992
[13.26] Thích Giác Toàn , Giáo Dục Phật giáo , 2005
[14,11-12] Thích Minh Châu dịch , Thắng Pháp Tập Yếu , Tư thư viện đại học Vạn Hạnh , 1973 
gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

TIN LIÊN QUAN

Lịch sử tiếp nhận Kinh Địa Tạng ở Việt Nam

Nghiên cứu 11:15 21/09/2025

Kinh Địa Tạng, bằng góc nhìn “thật giáo” (nói thẳng giáo lý cần trình bày) là hình ảnh đức Đại nguyện Địa Tạng vương Bồ tát – Ngài xuất hiện như cánh cửa nhân đạo giúp chúng sinh lạc lối có thể tìm được ánh sáng quay về nẻo chính.

Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần

Nghiên cứu 14:00 30/11/2024

Có thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.

Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước

Nghiên cứu 08:45 25/11/2024

Phật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần

Nghiên cứu 09:40 15/11/2024

Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.

Xem thêm