Tôi yêu đất nước tôi
“Bài thơ của một người yêu nước mình” của Trần Vàng Sao là một trong những tác phẩm độc đáo của thơ ca Việt Nam hiện đại. Nó không giống các bản hùng ca thường thấy trong thời chiến, mà mang chất giãi bày, tự sự cá nhân...
Bài thơ của một người yêu nước mình
(Trần Vàng Sao)
Buổi sáng tôi mặc áo đi giày
ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông nứa trắng bên sông
Mùi tóc khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
Tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu.
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ
Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
Sống qua ngày nên phải nghiến răng
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười
Những buổi trưa buổi tối
Ngồi một mình hay khóc
Vẫn thở dài mà không nói ra
Thương con không cha
Hẩm hiu côi cút
Tôi yêu đất nước này xót xa
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
Thương tôi nên ở goá nuôi tôi
Những đứa bà con nhà giàu hằng ngày chửi bới
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,
như cho một đứa hủi
Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới
Thắp ba cây hương
Với mấy cái bông hải đường
Mẹ tôi khóc thút thít
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
Con nó còn nhỏ dại
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng
Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những năm dài thắp đuốc đi đêm
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Giành từng lon gạo mốc,
Từng cọng rau hột muối
Vui sao khi còn bữa đói bữa no
Mẹ thương con nên cách trở sông đò
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
Đêm nào mẹ cũng khóc
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm
Mong con khôn lớn cất mặt với đời
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
Tôi yêu mẹ tôi áo rách
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc mỗi to,
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
Tôi yêu đất nước này những buổi mai
Không ai cười không tiếng hát trẻ con
Đá đất cỏ cây ơi
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha
Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt chảy ra
Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi
Ngày mai mua may bán đắt
Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất nước này như thế
Như yêu cây cỏ ở trong vườn
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
Nuôi tôi thành người hôm nay
Yêu một giọng hát hay
Có bài mái đẩy thơm hoa dại
Có sáu câu vọng cổ chứa chan
Có ba ông táo thờ trong bếp
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò
Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
Trong bước chân chim sẻ
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
Hay nói chuyện huyên thuyên
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
Cứ hay cười mà không biết có người buồn.
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
Ngó cây cam cây cải
Thương mẹ già như chuối ba hương
Em chưa buồn
Vì chưa rách áo
Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
Áo đứt nút qua cầu gió bay
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu rau có rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đẩy hồn Thánh Gióng.
Tôi đi hết một ngày
Gặp toàn người lạ
Chưa ai biết chưa ai quen
Không biết tuổi không biết tên
Cùng sống chung trên đất
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
Cùng có chung tên gọi Việt Nam
Mang vết thương chảy máu ngoài tim
Cùng nhức nhối với người chết oan ức
Đấm ngực giận hờn tức tối
Cùng anh em cất cao tiếng nói
Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
Bữa ăn nào cũng phải được no
Mùa lạnh phải có áo ấm
Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm
Được thờ cúng những người mình tôn kính
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.
Tôi trở về căn nhà nhỏ
Đèn thắp ngọn lù mù
Gió thổi trong lá cây xào xạc
Vườn đêm thơm mát
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử
Đất nước hôm nay đã thấm hồn người
Ve sắp kêu mùa hạ
Nên không còn mấy thu
Đất nước này còn chua xót
Nên trông ngày thống nhất
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
Lòng vui hôm nay không thấy chật
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất.
19/12/1967

Phân tích:
Ngay những câu mở đầu, Trần Vàng Sao đã khẳng định tình yêu đất nước không phải điều gì cao siêu hay trừu tượng, mà bắt đầu từ những cảnh sắc, âm thanh, mùi hương rất đời thường: gió thổi bông nứa trắng, mùi rơm rạ, bầy chim sẻ trước sân, tiếng còi tàu xa vắng. Đất nước hiện ra không phải là biểu tượng chính trị hay khẩu hiệu, mà là hơi thở của đời sống hằng ngày, của những điều bình dị.
Ở đó, “tôi” yêu nước như yêu tiếng cười lạ, một câu ca dao, vết bùn khô trên đá. Đất nước gắn bó với từng chi tiết nhỏ bé, vừa thân quen vừa mộc mạc, khẳng định rằng lòng yêu nước trước hết khởi phát từ tình cảm cụ thể với mảnh đất, ngôi nhà, dòng sông, nếp sống.
Cái tôi trữ tình ở đây mang vẻ đẹp rất gần gũi: vẫn ăn, vẫn thở, vẫn sống như bao người. Chính sự hòa nhập tuyệt đối với đời sống bình thường khiến tình yêu đất nước của nhân vật trữ tình trở nên chân thật, không màu mè.
Nhưng đất nước không chỉ là cảnh vật, mà còn là thân phận những con người lam lũ, trước hết là người mẹ. Hình tượng người mẹ trong bài thơ hiện lên với tất cả nỗi vất vả, cay cực: chồng chết sớm, một mình nuôi con, nợ nần chồng chất, ngày hai buổi chợ, áo rách, đêm nào cũng khóc, đêm nào cũng khấn thầm.
Trần Vàng Sao dựng lên bức chân dung người mẹ Việt Nam tảo tần, chịu thương chịu khó, tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ trong chiến tranh và nghèo khó. Mẹ không chỉ là mẹ của riêng “tôi”, mà còn là hình ảnh của Tổ quốc: côi cút, nhọc nhằn, chịu đựng, nhưng vẫn giàu tình thương và nghị lực.
Câu thơ “Tôi yêu đất nước này xót xa” là một mốc quan trọng. Yêu nước không phải chỉ là tự hào, mà còn là nỗi đau, sự xót xa khi chứng kiến cảnh đời cơ cực của mẹ, của những phận người thấp hèn, bị khinh rẻ, bị coi thường. Tình yêu đất nước ở đây đồng thời là tình thương người, là nỗi đau gắn liền với số phận của những người thân thuộc nhất.
Bài thơ khắc họa một đất nước gắn liền với nỗi cơ cực muôn đời: giành từng lon gạo mốc, từng cọng rau, hột muối; vui sao khi còn bữa đói bữa no. Những chi tiết ấy làm bật lên thực tế nghèo đói, lầm than của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh.
Những dòng thơ về mẹ gánh gồng qua cầu xuống dốc, đêm nào cũng khóc và khấn thầm, gợi ra sức chịu đựng lặng lẽ của nhân dân. Đây là tình yêu đất nước trong cay đắng: yêu cả khi đất nước rách nát, yêu trong nghèo khó, yêu cả khi không có gì để tự hào.
Sự chân thực ấy khác hẳn với nhiều bài thơ cách mạng cùng thời vốn thường ca ngợi vẻ hùng tráng, lớn lao. Trần Vàng Sao không phủ nhận hiện thực nghiệt ngã, trái lại, ông chọn cách đối diện và khẳng định tình yêu ngay trong đớn đau. Chính sự thật thà đó làm bài thơ có sức lay động đặc biệt.
Từ mẹ, nhân vật trữ tình mở rộng tình yêu sang những gì gần gũi khác: hàng xóm, em gái tuổi học trò, những câu vọng cổ, giọng hát dân gian, phong tục thờ ba ông Táo. Đất nước được nhìn như một gia đình lớn, nơi có căn nhà dột nát, có bát canh rau dền, có hàng xóm, có tiếng trẻ con khóc, có khói hương ngày giỗ cha.
Đó là đất nước đời thường - không vĩ đại trên sách vở, mà thân thuộc trong từng mảnh đời. Yêu nước vì vậy đồng nghĩa với yêu mẹ, yêu em, yêu hàng xóm, yêu giọng hát, yêu ký ức tuổi thơ. Tình yêu này không tách rời, mà hòa nhập trong những sợi dây gắn kết gia đình - cộng đồng - tổ quốc.
Bài thơ được viết ngày 19/12/1967, trong giai đoạn đất nước chia cắt. Khát vọng thống nhất vang lên mạnh mẽ ở những câu thơ cuối:
“Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam / Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc”.
Đây là tiếng nói thiết tha của một người con đất Việt mong xóa bỏ chia cắt, tìm lại sự toàn vẹn. Tình yêu đất nước ở đây không chỉ là tình cảm cá nhân mà còn là khát vọng lịch sử, hòa chung trong ý chí của cả dân tộc.
Bài thơ cũng cất lên lời tuyên ngôn cho những quyền sống căn bản: được ăn no, được mặc ấm, được cười, hát, yêu thương, được thờ cúng tổ tiên. Đó là sự gắn bó giữa tình yêu nước và khát vọng tự do, độc lập, thống nhất. Yêu nước là yêu cuộc đời này phải công bằng, xứng đáng cho mọi người dân.
“Bài thơ của một người yêu nước mình” gây ấn tượng bởi giọng điệu giản dị, như lời tâm sự đời thường. Không trau chuốt ngôn từ, không dùng ẩn dụ cầu kỳ, bài thơ thiên về tự sự, trải lòng.
Nhịp thơ tự do, lúc ngắn lúc dài, có khi là câu kể, có khi như lời nói thường ngày. Nhưng chính sự mộc mạc ấy tạo nên sức mạnh: nó khiến tình yêu đất nước trở nên gần gũi, thật thà, dễ đồng cảm. Người đọc thấy ở đó bóng dáng của mình, của mẹ mình, của căn nhà nhỏ, của ký ức tuổi thơ.
Bên cạnh đó, bài thơ cũng giàu hình ảnh gợi cảm: “giọt nước trong lá sen”, “con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua”, “chim đậu trên cành chim không hót”… Những hình ảnh vừa cụ thể, vừa giàu sức ám gợi, làm tăng chiều sâu cảm xúc.
Điều làm bài thơ sống mãi chính là tính nhân văn sâu sắc. Trần Vàng Sao khẳng định: yêu nước không phải chỉ khi đất nước vinh quang, mà ngay cả khi đất nước nghèo đói, chia cắt, rách nát, vẫn yêu, vẫn gắn bó.
Tình yêu ấy bắt nguồn từ tình thương mẹ, từ nỗi đau thân phận, từ khao khát cuộc sống công bằng. Nó không sáo rỗng mà chân thực, không chỉ là lý tưởng mà còn là máu thịt.
Bài thơ trở thành minh chứng rằng lòng yêu nước không chỉ thuộc về những trang sử hào hùng, mà còn nằm trong từng bữa cơm rau cháo, trong từng giọt mồ hôi mẹ, trong tiếng khóc trẻ con, trong nỗi đau mất mát của bao gia đình.
“Bài thơ của một người yêu nước mình” của Trần Vàng Sao là một trong những tác phẩm độc đáo của thơ ca Việt Nam hiện đại. Nó không giống các bản hùng ca thường thấy trong thời chiến, mà mang chất giãi bày, tự sự cá nhân.
Chính vì vậy, bài thơ có vị trí riêng: là tiếng nói của một con người cụ thể, với những trải nghiệm, cay đắng, thương yêu, nhưng đồng thời phản ánh tâm trạng chung của một thế hệ. Nó góp phần làm phong phú diện mạo thơ ca kháng chiến, cho thấy lòng yêu nước có nhiều cung bậc, trong đó có cả nỗi buồn, sự xót xa, chứ không chỉ niềm tin lạc quan.
“Bài thơ của một người yêu nước mình” là bản tình ca chân thật về đất nước, về mẹ, về tình người. Trần Vàng Sao đã khắc họa tình yêu Tổ quốc không qua tượng đài vĩ đại, mà qua căn nhà rách nát, bữa cơm rau cháo, giọt nước mắt của mẹ, khát vọng thống nhất và tự do.
Tình yêu ấy vừa bình dị vừa lớn lao, vừa cá nhân vừa cộng đồng, vừa cay đắng vừa hy vọng. Nó cho thấy yêu nước là gắn bó với từng chi tiết nhỏ bé của đời sống, với từng số phận con người, và cuối cùng, là khát vọng chung: một đất nước thống nhất, no ấm, công bằng, hạnh phúc.
Bài thơ vì thế vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay: nhắc nhở chúng ta rằng yêu nước không phải điều xa vời, mà chính là yêu thương, gắn bó, chia sẻ với nhân dân, với quê hương, với từng hơi thở đời thường.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Nghe mưa với “Những chuyến phà qua sông”
Sách Phật giáoCách đây tầm mấy năm, con có nghe Thầy bảo rằng Thầy đang phác thảo bộ tự truyện.
Trà sư Ngô Thị Thanh Tâm ra sách "80 câu hỏi về Trà"
Sách Phật giáoCuốn sách “80 câu hỏi về Trà” của Trà sư Ngô Thị Thanh Tâm vừa được giới thiệu đến độc giả như một công trình biên soạn súc tích, hệ thống và chuẩn mực, nhằm cung cấp nền tảng tri thức về trà học hiện đại, đồng thời tôn vinh giá trị văn hóa của trà trong đời sống tinh thần người Việt.
Thi nhân thiền vị
Sách Phật giáoThi sĩ Phạm Thiên Thư đã mở ra một “cõi thơ” riêng, rất lạ, đầy ấn tượng để chiêm nghiệm về cuộc sống, triết lý nhân sinh và những phẩm hạnh đời người.
Sách “Danh Tăng Phật giáo Đồng Tháp xưa và nay”: Hương giới đức giữa đất sen hồng
Sách Phật giáo“Danh Tăng Phật giáo Đồng Tháp xưa và nay” (Nxb Hồng Đức) là một công trình biên khảo công phu do Ban Văn hóa GHPGVN tỉnh Đồng Tháp biên soạn, Thượng tọa Thích Phước Huệ chủ biên.
Xem thêm














