Từ điển phật học online
Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z

Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ Mạn Trà La hay Mạn Đà La theo Tự điển Phật học như sau:

có nghĩa là:

(s: Maṇḍala, 曼茶羅 hay 曼陀羅): theo nguyên ngữ Sanskrit là maṇḍala, ngữ căn maṇḍa có nghĩa là "chơn tủy, bản chất", và vì tiếp vĩ ngữ la có nghĩa là "có được", cho nên từ này có nghĩa là "có được bản chất", tức là đạt được giác ngộ tối cao gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác của Phật. Chính vì đó là cảnh địa sung thật, đầy đủ như vòng tròn, nên từ này còn được dịch là "Luân Viên Cụ Túc" (輪圓具足, vòng tròn đầy đủ). Về mặt ngữ nguyên học, từ maṇḍala vẫn chưa được giải thích một cách trọn vẹn cho lắm, nhưng trong văn bản bình thường nó có nghĩa là "hình thức giống như vòng tròn". Trong Chơn Ngôn Mật Giáo, nó có nghĩa là "nơi đắc ngộ" hay "đạo tràng". Vì trong đạo tràng có thiết lập đàn tràng để cho chư Phật và Bồ Tát vân tập, nên từ này còn có nghĩa là "đàn" hay "sự tập hợp", từ đó nó được dùng để gọi những hình đồ vẽ các hình tượng tập trung. Quan niệm mang tính trừu tượng một cách thuần túy thì được gọi là Tự Tánh Mạn Trà La (自性曼茶羅). Theo đà phát triển về quán tưởng Phật, hình thức Quán Tưởng Mạn Trà La phản ánh thế giới của Phật trong tâm mang tính cụ thể bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, theo thường tình thì việc quán Phật rất khó khăn, nên hiện tại các hình tượng được vẽ rất cụ thể. Trong Kinh Ngưu Lê Mạn Đà La Chú (牛梨曼陀羅呪經) được dịch vào thời nhà Lương (502-557), có đề cập đến cách vẽ tượng Bổn Tôn ở giữa trung tâm của đàn, và các tượng quyến thuộc nằm chung quanh tượng Bổn Tôn này. Gần đây nguyên bản chép bằng tiếng Sanskrit (thế kỷ thứ 5-6) của kinh này được phát hiện ở Kashmir, và điều này chứng tỏ rằng vào thời ấy ở Ấn Độ cũng đã xuất hiện hình thức Mạn Đà La rồi. Từ thời Nam Bắc Triều (420-589) cho đến thời nhà Tùy (581-619), hình thức vẽ các họa tượng như Phép Cầu Mưa (請雨法), Thập Nhất Diện Quan Âm (十一面觀音), v.v., đã trở nên rõ ràng. Vào đầu thời nhà Đường thì trong Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經) do A Địa Cù Đa (阿地瞿多) dịch có đề cập đến Tập Hội Đàn (集會壇). Đến thế kỷ thứ 8, trong Bất Không Quyên Sách Kinh (不空羂索經) hay Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Kinh (一字佛頂輪王經) do Bồ Đề Lưu Chí (菩提流志) dịch đã thấy xuất hiện hình thức Thai Tạng Mạn Trà La (胎藏曼茶羅). Ở Ấn Độ, vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7, và từ thế kỷ thứ 7 đến đầu thế kỷ thứ 8 thì Đại Nhật Kinh (大日經), Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經) đã được thành lập, cho nên trong Thai Tạng Mạn Trà La và Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼茶羅) đã xuất hiện Đại Nhật Như Lai (大日如來) làm đấng Trung Tôn. Chính vì lẽ đó, trong Mật Giáo gọi hình thức trước là Tạp Mật (雜密) và hình thức sau là Thuần Mật (純密). Cả hai đều được truyền vào Trung Hoa và được chỉnh bị thống nhất lại với nhau, hoàn thành nên Lưỡng Giới Mạn Trà La (兩界曼茶羅). Rồi cả hai bộ này cũng được Không Hải sang Trung Hoa thỉnh về Nhật và lưu bố với tư cách là Hiện Đồ Mạn Trà La (現圖曼茶羅).

Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.

Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.

Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:

Ma-nô-sa 末奴沙 ma ma mả ma ma ma
Tự điển Phật học online được cung cấp bởi Cổng thông tin Phật giáo Việt Nam.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)