Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa . Ý nghĩa của từ quốc thanh tự theo Tự điển Phật học như sau:
có nghĩa là:
(國清寺) Chùa ở chân núi phía nam ngọn Phật Lũng, núi Thiên Thai, phía bắc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc là nơi phát tích của tông Thiên thai. Vào năm Khai Hoàng 18 (596) đời Tùy, Tấn vương Dương Quảng (sau là Dạng Đế) đã sáng lập chùa này để cúng dường Đại sư Trí khải. Đầu tiên, Thiền sư Định Quang trụ ở ngọn núi này, ngài từng bảo đệ tử rằng không bao lâu nữa sẽ có bậc đại thiện tri thức thống lãnh đồ chúng đến ở núi này. Sau, quả nhiên có ngài Trí Khải đến đây truyền bá giáo pháp, ngài muốn xây chùa ở phía nam ngọn núi Phật lũng, nhưng ý định chưa được thực hiện thì ngài đã viên tịch. Tấn vương Dương Quảng vô cùng thương tiếc và vì ngài mà thiết trai cúng dường 1.000 vị tăng, sau đó, lại xây cất thêm điện đường ở chùa. Lúc đầu, Tấn Vương đã đặt tên chùa là Thiên thai sơn tự, sau nhân lúc ngài Trí Khải mới vào núi này, Thiền sư Định Quang từng báo mộng rằng: 3 nước (chỉ cho Bắc Chu, Bắc Tề và Trần) hợp làm một thì sẽ có người nhiều thế lực có thể làm được chùa này, nếu chùa được hoàn thành thì quốc gia sẽ thanh bình, nên đặt tên là Quốc thanh tự. Niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu (605) đời Tùy, vua ban biển ngạch Quốc Thanh Tự. Ít lâu sau, ngài Quán Đính trụ trì, từ đó, chùa trở thành đạo tràng căn bản của tông Thiên thai. Từ năm Trinh nguyên đời Đường về sau, rất nhiều vị tăng Nhật bản du học Trung quốc đã đến tham bái chùa Quốc thanh, như các sư Tối Trừng, Nghĩa Chân, Viên Tải, Viên Trân, Thành Tầm, Tuấn Nhưng, Trọng Nguyên, Vinh Tây...đều đã đến lễ tháp thờ ngài Trí Khải, hoặc có vị làm việc Phật, hoặc có vị đem tượng Phật và kinh luận về nước, nhân đó mà sáng lập tông Thiên thai của Phật giáo Nhật Bản. Cứ theo Nhập đường cầu pháp tuần lễ hành kí quyển 1 của ngài Viên Nhân, trong chùa Quốc Thanh lúc nào cũng có 150 vị tăng thường trú, hạ an cư thì có từ 300 vị trở lên, như vậy ta có thể thấy pháp vận của chùa thời đó hưng thịnh đến mức nào. Trong Pháp nạn Hội xương (846) đời Đường, chùa đã bị đốt, năm Đại trung thứ 5 (851) được xây dựng lại. Năm Cảnh đức thứ 2 (1005) đời Tống, chùa được đổi tên là Cảnh Đức Quốc Thanh Tự. Sau lại bị lửa chiến tranh hủy hoại, mấy trăm quyển sách của các vua 3 triều cháy hết, chỉ còn Liên kinh của ngài Trí khải, 1 quyển kinh lá bối từ Tây vực, tượng Phật bằng gỗ chiên đàn tạc vào đời Tùy và răng Phật. Năm Kiến viêm thứ 2 (1128) đời Nam Tống, vua ban sắc trùng tu, chùa trở nên đẹp đẽ gấp bội so với ngày trước. Năm Kiến viêm thứ 4 (1130), vua hạ lệnh đổi Giáo thành Thiền, từ đó về sau chùa Quốc thanh trở thành Thiền tự. Sau, trải qua nhiều lần xây cất thêm, chùa trở thành 1 trong Tứ tuyệt trong thiên hạ từ xưa đến nay. Hai bên chùa có 5 ngọn núi (Bát trụ, Linh cầm, Tường vân, Linh chi và Ánh hà) bao vòng chung quanh chùa, có 2 dòng suối chảy vòng hợp lại ở trước chùa. Chùa có cây cầu tên là Phong can, tương truyền đó là nơi mà Thiền sư Phong can đời Đường thường dạo chơi với các ngài Hàn sơn và Thập đắc. Lại do nhân duyên của Thiền sư Phong can với chùa này mà biết được rằng tuy đến đời Tống chùa mới được đổi thành Thiền tự, nhưng ngay từ đầu đời Đường chùa đã dần dần được Thiền hóa rồi. Hiện nay các kiến trúc trong chùa còn nguyên vẹn, phía trước chùa có ngôi tháp gạch 9 tầng, tương truyền do Tùy dạng đế (Tấn vương Dương quảng) sai Tư Mã Vương hoằng kiến thiết để thờ ngài Trí Khải; tháp cao khoảng 23 trượng, mặt bằng, 6 góc, qui mô rộng lớn, nhưng có vẻ là kiến trúc đời Tống. Bảo vật còn được cất giữ trong chùa có tháp xá lợi bằng đồng do Ngô việt vương Tiền hoằng thục tạo, tháp này là 1 trong 8 vạn 4 nghìn tháp, là vật đã đào được trong khu vực chùa, cao 19 cm, phần dưới cùng của tháp bên trong có khắc chữ. Cảnh chùa có 2 nơi di tích của ngài Nhất Hạnh (673-727). Ngài Nhất Hạnh là vị cao tăng đời Đường,1 nhà Thiên văn học nổi tiếng, từng sửa lại lịch Đại diễn. Ngài đến chùa Quốc Thanh, cùng với vị tăng trong chùa nghiên cứu về số học. Người đời sau xây mộ dựng bia ở phía sau thápThất Phật trước chùa để tưởng niệm ngài, trên đề dòng chữ: Đường Nhất Hạnh Thiền Sư Chi Tháp (Tháp thiền sư Nhất Hạnh đời Đường). Lại truyền rằng khi ngài Nhất Hạnh đến đây thì núi Bắc mưa lớn, dòng suối ở núi Đông trước chùa chảy mạnh, tràn ngược về phía Tây. Nay, bên cầu Phong can có tấm bia đá vuông, trên đó viết 7chữ: Nhất Hạnh Đảo Thử Thủy Tây Lưu (Ngài Nhất hạnh đến đây nước chảy về tây). [X. Bài tựa Quốc thanh bách lục; Tùy thiên thai Trí giả đại sư biệt truyện, Thiên thai sơn toàn chí; Cổ kim đồ thư tập thành sơn xuyên điển thứ 123].
Trên đây là ý nghĩa của từ trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
Quả quá quả quả quá qua quả quả quả quá ácTuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)