Văn hoá Phật giáo trong tâm lý trị liệu (2)
Việc buộc phải lặp lại các triệu chứng theo các lý thuyết Freud tương tự như vòng luân hồi (“Luật luân hồi”) của sự tồn tại trong Phật giáo.
So sánh với liệu pháp tâm lý
1. Sự cưỡng chế lặp lại và luật Luân hồi.
Việc buộc phải lặp lại các triệu chứng theo các lý thuyết Freud tương tự như vòng luân hồi (“Luật luân hồi”) của sự tồn tại trong Phật giáo. Điều này tạo ra một "bánh xe" của nỗi đau tự quay vô thời hạn mà không có hồi kết nếu người ta không giải thoát bản thân khỏi những nguyên nhân của nó. Sự giống nhau ở mặt mô tả này thuộc về hiện tượng học. Nó bao gồm hai cách tiếp cận bổ sung cho nhau về sự lặp lại các triệu chứng của nỗi đau đạo đức.
Một mặt, đó là hậu quả của một cuộc xung đột tâm thức chưa được giải quyết hoặc chưa được xoa dịu đầy đủ giữa hai xung năng. Mặt khác, đó là khát khao buộc làm mới các đòi hỏi ngày càng nhiều để lấp đầy sự thất vọng và rời khỏi xung đột. Chúng ta đang ở trong một năng động có tính mâu thuẫn của ham muốn: ham muốn nhất thiết phải tạo ra sự thất vọng, điều đối lập với mong muốn không phải chịu đựng nó. Và cứ thế nó tiếp tục lặp đi lặp lại.
Nói tóm lại, mong muốn đồng thời là một ghi nhận về trạng thái vừa là một sự chuyển động trước những thử thách trong dự định giữa thời điểm hiện tại và thời điểm trong tương lai. Do đó, khao khát chuyển động được ghi nhận trong sự e ngại về ham muốn và chuyển động. Nỗi sợ hãi này đóng băng thời gian hiện tại và khắc phục mâu thuẫn tâm thức giữa nỗi sợ hãi về một tương lai không chắc chắn và nhu cầu an toàn. Sự lo lắng cần được giảm bớt. Thực tế là các triệu chứng lặp lại tạo ra các nghi thức và ám ảnh sau đó là các nghi lễ thần chú trấn an.
Từ đó, thâm nhập vào các nghi lễ cầu nguyện văn hóa chính thống, thứ dường như là một sự phục hồi được mã hóa để xua đuổi sự không chắc chắn và kiểm soát sự lo lắng về tương lai. Do đó, các liệu pháp nhận thức và hành vi có thể tìm thấy ý nghĩa văn hóa ở đó ngoài các phương thức điều hòa và học tập. Sau đó, những nghi thức văn hóa này mang một thông điệp ở hiện tại để trấn an tương lai bằng một khuôn khổ giúp người đó có thể phát triển dự định của mình. Các liệu pháp trị liệu lo âu sợ hãi sau Covid cần các nghi thức văn hóa để trở lại trạng thái bình thường.
2. Ghi nhận về sự thiếu thốn và khả năng phục hồi.
Các lý thuyết về sự thất vọng dựa trên cảm giác thiếu hụt - một sự chủ quan - và / hoặc về cảm giác thiếu hụt thực tế và khách quan. Đói mà không đủ ăn là thực tế chủ quan và khách quan của những người không có đủ khả năng ăn uống hợp lý. Là một đứa trẻ béo phì có nghĩa là phải ăn uống đầy đủ và khách quan, nhưng về mặt chủ quan, nó có thể là một triệu chứng của sự thiếu thốn tình cảm hoặc sự quan tâm của cha mẹ. Người lớn sẽ tìm cách lấp đầy sự thiếu hụt của đứa trẻ bằng cách sửa chữa cảm giác đi kèm với nó. Khái niệm "An phận" [chấp nhận thân phận con người] sẽ là một cách lùi lại một bước dưới hình thức một ghi nhận về tình hình và có hai cách nhìn nhận về từ này. Đó là một ghi nhận để xác định thực tế trước khi chuẩn bị cho tương lai. Đó là triết lý Phật giáo đắt giá “ở đây, bây giờ và trọn vẹn” từ sư phụ Thích Nhất Hạnh, là nguồn gốc của “liệu pháp chánh niệm (Mindfulness)”.
Hơn nữa, "an phận" có thể thừa nhận sự cam chịu và chối bỏ vận động. Tuy nhiên, ngay sau khi tuyên bố "ở đây, bây giờ và trọn vẹn", nó có ảnh hưởng đến việc chối bỏ số phận, mà tác động của nó đi ngược lại với việc quy gán điều không thể chấp nhận được. Do đó nó sẽ là vấn đề về từ bỏ-từ bỏ, nghĩa là từ bỏ sự cam chịu. Quá trình trị liệu của “liên kết kép” được bắt đầu bởi những mệnh lệnh mâu thuẫn và nghịch lý (Gregory Bateson và trường phái Palo Alto). Còn từ bỏ-từ bỏ là giáo lý của Phật giáo về Vô tướng (Không có như không, có như không). Sự thất vọng thực sự, cảm giác chủ quan của nó hay tình huống thất vọng có thể là đối tượng của sang chấn khi nó kéo dài dai dẳng với những cơn đau tâm thức và các triệu chứng soma.
Chính xác hơn, “An phận” không phải là số phận, cũng không phải là định mệnh mà là điểm xuất phát để bắt đầu quá trình kiên cường. Sức bền tâm lý là một hiện tượng tâm lý xảy ra ở một cá nhân bị ảnh hưởng bởi sang chấn khi đối diện với sự kiện đau thương như thể không hay không còn sống trong bất hạnh và xây dựng lại bản thân theo cách được xã hội chấp nhận. Những thất vọng lặp đi lặp lại thường xuyên trở thành tình trạng sang chấn, sức bền bắt đầu từ nền tảng trải nghiệm của thế hệ - Nghiệp (Nhân quả) - với động cơ mạnh mẽ thuần khiết của “trái tim tỉnh thức” (Tâm Phật).
3. Cuộc sống làm từ đau khổ, dù vậy cuộc sống vẫn tiếp diễn và vẫn phải tươi đẹp.
Vì sự tồn tại được tạo thành từ những nỗi thất vọng lặp đi lặp lại bất chấp khả năng phục hồi, đau khổ sẽ là đau đớn với con người đến mức họ muốn che đậy nó để có được niềm vui và để sau đó đáp lại mong muốn tồn tại. Niềm vui là phù du, chúng ta muốn trao điều tốt đẹp, không phải đau khổ. Lời Phật dạy nói gì để chấm dứt nỗi khổ này? Câu hỏi này từ lâu đã khiến người ta tin rằng đạo Phật là một giáo lý bi quan và những người theo đạo Phật là những người chán nản và phục tùng Nhân quả và “An phận”. Mong muốn chấm dứt cơn đau này sẽ là một điều vô lý nếu ở trạng thái thô vì nó sẽ dẫn đến mong muốn chết. Chúng ta không ở đây theo một góc nhìn lôgic về mối quan hệ đẩy và kéo giữa xung năng sống và chết - Eros và Thanatos (hoặc Shiva và Vishnu). Ngoài ra, chính trải nghiệm quan trọng của Đức Phật trong lần đối đầu cuối cùng với nữ thần Maya sẽ mang đến cho Ngài sự thức tỉnh về bản chất nỗi đau (Giác ngộ). Muốn ngừng đau khổ là thể hiện một sức sống và một động lực tích cực để cải thiện để sống tốt hơn.
Và Đức Phật đề xuất một phương pháp luận theo hai giai đoạn: sức sống thuần khiết thông qua “yêu-yêu” và biểu hiện của nó thông qua “sự lựa chọn đối tượng của tình yêu” để cụ thể hóa sức sống này. Trước hết, những nỗi đau của cuộc sống không phải là vĩnh viễn nhờ vào quá trình biểu tượng hóa. Ngôn ngữ ổn định sự vật và tình huống thông qua các từ được tạo ra để biểu thị chúng. Tính trừu tượng tạo ra một hằng số chứa đựng sự lo lắng và hỗ trợ thực tế thay đổi sự vật, chúng sinh và tình huống.
Do đó, sâu hơn, có một sự Vô thường của thế giới mà con người tạo ra ngôn ngữ để chống lại suy nghĩ này. Đây cũng là lý do tại sao chúng sinh thích nói về hoàn cảnh của họ và sợ sự im lặng. Điều này không có nghĩa là im lặng là vô nghĩa. Rồi đến một lúc nào đó, đó là một sự tỉnh ngộ. Từ ngữ mang lại thực tế bằng cách tạo ra một hướng dẫn sử dụng cho thế giới, nhưng chúng sẽ hạn chế suy nghĩ hoặc thậm chí khóa trí tưởng tượng của con người. Làm thế nào để hiểu quá trình này? Lời nói ràng buộc con người trong hai nhịp độ. Trước hết, sức sống của sự tồn tại như một động lực nguyên thủy: đó là « yêu-yêu ».
Có một sự gần gũi về mặt ngữ nghĩa của sự thanh tịnh với ý niệm “Tâm tỉnh thức cũng nói lên lòng Phật”, tức “Tâm Phật”. Ngay sau đó là việc hoàn thiện lý do tại sao phải « yêu-yêu » bằng cách lựa chọn đối tượng của tình yêu. Ví dụ, người đó xác định nguyên nhân và mục đích cho việc yêu. “Đối tượng tình yêu” này có thể là một con người, một hình ảnh tinh thần, một lý tưởng, một đại diện. Đó là sự khách quan hóa chủ quan. Và sự khách quan hóa này tạo ra một sự lựa chọn mang tính khác biệt, và tại đây họ học cách chấp nhận sự khác biệt và mâu thuẫn. Khi sự lựa chọn này không thỏa mãn hoặc không đầy đủ, sự đau khổ khác có thể phát sinh. Vì vậy, chúng ta di chuyển hoặc thay thế đối tượng tình yêu này bằng đối tượng khác để bảo tồn sức sống nguyên vẹn. Điều này có nghĩa là bạn có thể tiếp tục yêu bằng cách thay đổi đối tượng yêu. Đây là phạm trù đầy đủ của quan niệm Phật giáo về sự buông và bỏ - “thả và xả”.
Vấn đề không phải là từ bỏ cuộc sống (hoặc chạy trốn nó) và đánh mất sức sống của mình, mà là tách mình và buông bỏ sự kìm kẹp của ngôn từ cũng như những thứ thuộc về tinh thần và vật chất của bản thân, những điều bắt chung ta phải nắm giữ hay kìm nén. Đó là giữ cho sự tự do bên trong có lợi cho sự phát triển của trí tưởng tượng và hữu ích cho sự sáng tạo mà không hủy hoại bản thân.
4. Các liệu pháp tâm lý của Chủ thể-cái tôi và Vô ngã
Cá nhân, con người, loài người, bản thể là những khái niệm nền tảng về sự thống nhất hiện sinh bởi vì những khai niệm này bảo vệ ý tưởng rằng mỗi người là duy nhất và khác biệt với người lân cận nhưng họ vẫn là đồng loại của mình. Không có sai lầm về con người. Đây là kết quả của một quá trình tự nhận diện bản thân được gọi là sự ái kỷ. Từ khi sinh ra và cho đến những năm đầu tiên, trẻ sơ sinh và sau đó là trẻ nhỏ tự nhận biết mình bằng hình ảnh mà môi trường gửi lại cho chúng bằng một hiệu ứng soi gương. Hình ảnh này mang định danh: đó là "tôi là tôi" trong gương và sau đó là trong cái nhìn của người khác. Dần dần, tình trạng ái kỷ sơ cấp này trở nên phức tạp hơn và phát triển theo hướng ái kỷ thứ cấp để giành được nhiều quyền tự chủ hơn. Cái Tôi xác định những người khác giống với nó nhưng khác với chính nó. Họ là những cái tôi khác nhau: tôi là tôi, và anh ấy là anh ấy. Cái tôi phát triển một số đặc điểm nhận dạng (xã hội, nghề nghiệp, gia đình, công dân…) bằng cách bước vào thế giới nơi các mối quan hệ có tính trung gian, ẩn danh hoặc cá nhân dựa trên sự tương hỗ hay thứ bậc. Đối mặt với một số tình huống, cái tôi yếu đuối có thể cần sự nâng đỡ và hỗ trợ tâm lý để bảo vệ hoặc củng cố bản thân. Trong những trường hợp khác, cái tôi có tính chinh phục: muốn cảm thấy luôn mạnh mẽ và hiệu quả hơn (khai vấn – coaching). Cái tôi này sẽ luôn thể hiện sự thèm muốn bởi sự sợ hãi bị bỏ lỡ hoặc mong muốn luôn có nhiều hơn. Điều này đặt câu hỏi về giới hạn đạo đức của sự thèm muốn này.
Nếu lời dạy của Phật không biết gì về sự ái kỷ trong việc xây dựng con người, thì ngược lại, điều đó có thể nói rằng lòng tham của cái tôi luôn muốn nhiều hơn, là một liều thuốc độc (Ba độc) khi cái tôi chỉ tập trung vào giá trị duy nhất của nó. Nói cách khác, cái tôi phải biết cách tách mình ra khỏi những lợi ích ích kỷ của bản thân và biết cách buông bỏ những thôi thúc tự nhiên, mong muốn bản thân là trung tâm quyền lực. Sống có đạo đức, đây là một bản ngã biết và có thể đặt mình vào vị trí của người khác. Bản ngã này có khả năng vị tha và độ lượng: đây là ý nghĩa cần phải có trong quan niệm của Phật giáo về Vô ngã mà không phải là hư vô. Trong một thời gian dài, các tác giả đã giải thích Phật giáo là chủ nghĩa hư vô bằng cách gán cho vô ngã theo nghĩa một sự xóa bỏ bản thân thông qua sự phủ định. Vì vậy, có một sự ái kỷ bậc ba. Đối tượng tình yêu không còn tập trung vào cái tôi như trong giai đoạn tự ái bậc một hay bậc hai, mà nó hướng đến người khác. Vì vậy, khi chúng ta cho đi, đây không phải với sự tính toán (có ý thức hay không) để nhận lại. Bản chất xuất sắc của con người là lòng vị tha vì Chân lý được trao truyền cho đồng loại và cho các thế hệ sau. Không ai sống một mình và mọi người đều chia sẻ. Và đó là một sự hy sinh bản thân để cải thiện Nghiệp của thế giới xung quanh. Lời Phật dạy vì thế nói đến “dục vọng vô cầu”, nguyên gốc là “Từ bi” là một đức hạnh. Như cống hiến hết mình cho công việc thiện nguyện (Từ thiện).
Ngay cả những người nghèo khổ cũng biết rộng lượng với nhau. Những điều xảy ra cho mối quan hệ cũng sẽ đến theo cách không lường trước được bởi vì mối quan hệ không phải là "mua bán" tình cảm. Nói cách khác, không phải đối tượng của dục vọng chỉ huy khát vọng thực sự về sức sống. Điều này có được nhờ vào trí nhớ tập thể và văn hóa tập thể của loài người. Và mỗi người đều thiêng liêng vì họ nhận được một thừa hưởng khi sinh ra.
5. Kế thừa thế hệ và Nghiệp
Không ai sinh ra từ hư vô. Tầm quan trọng của sự kế thừa thế hệ và trải nghiệm văn hóa tập thể trong các liệu pháp đã được biết rõ. Đây không phải là mê tín dị đoan, cũng không phải là chủ nghĩa kỳ lạ, cũng không phải là chủ nghĩa bảo thủ. Đó không phải là coi quá khứ như một thiết kế hoặc một trình diễn mà quên đi ý nghĩa. Tôi nói rằng tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ một di sản không chính thức được ghi khắc trong ý thức của mọi người và ký ức tập thể của họ. Bắt đầu với những gì được truyền trong gia đình. Tôi cũng nói rằng điều này tiết lộ một thực thể tổng quát hơn và toàn cầu hơn được biết đến bằng thuật ngữ tiếng Phạn "Karma-nghiệp", có nguồn gốc từ thế giới Veda của người Hindu sau đó được đưa vào Phật giáo.
Nghiệp là một di sản không chính thức nói chung và được thừa kế như một món quà, mà chúng ta không thấy giới hạn của nghiệp. Sự tạm thời của nó chỉ xuất hiện khi một người tự quyết định về quan hệ nhân quả của mình. Mối quan hệ nhân quả này sẽ được giải thích, biện minh hoặc dự đoán. Đây là ý nghĩa của từ “Nhân quả” trong tiếng Việt: mỗi thứ cho đi là kết quả của một nguyên nhân mà chúng ta muốn gắn vào nó. Nhưng không phải tất cả mọi thứ đều xuất phát từ Nghiệp dù điều này có thể nặng nề khi chứa đựng. Do đó, sự nhân quả tích lũy tạo ra hành vi, chỉ ra một vị trí và có thể định hướng một số phận danh tính. Chính “Nghiệp” là gốc rễ của các khái niệm quy chiếu như “sự nghiệp” hay “nghề nghiệp”.
Ngoài ra còn có lòng trắc ẩn của “tội nghiệp”. Bằng cách này, một phần tấm gương ái kỷ của con người được xây dựng nên từ di sản này, giá trị mà họ có thể đấu tranh và viết nên câu chuyện của chính mình chống lại một "nghiệp chướng" đầy đau khổ. Một người không bao giờ là nạn nhân của Nghiệp. Mỗi người đề quản lý điều này, đều có trách nhiệm sửa chữa những khiếm khuyết của những gì họ đã nhận được nếu họ muốn. Về cơ bản, nghiệp được ghi nhận như một giá trị mang tính tích cực trong xung năng đạo đức của việc làm việc tốt. Sự cố gắng xác định về sự tồn tại của điều này không còn hiện diện trong tư tưởng phương Tây kể từ khi tâm lý học rời khỏi lĩnh vực thần học. Mặt khác, giá trị này rất hữu ích trong trị liệu. Chúng ta tách rời cảm giác trách nhiệm khỏi cảm giác mắc lỗi như hai lĩnh vực tâm lý khác nhau nhưng gần nhau: “tội” liên quan đến “lỗi”. Và đối với việc truyền lại điều này, người đó có nghĩa vụ và quyền nâng cao đạo đức của mình bằng cách thể hiện những gì tốt nhất của bản thân. Di sản không chính thức này là sinh học, văn hóa, vật chất giống như một món quà được nhận và nhận dạng… Nó mang tính cá nhân, có thể tùy chỉnh và không phải tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng.
Điều này chỉ củng cố nhu cầu về một xã hội có đạo đức và hành động vị tha. Nó cũng là một di sản tập thể và phổ quát. Ví dụ, các ngôi đền Angkor Wat của Campuchia đại diện cho di sản tập thể của Karma từ những người đã hy sinh bản thân để con cháu họ ngày nay được hưởng lợi từ nó thông qua du lịch. Các cộng đồng luôn kế thừa những phần lịch sử công khai và riêng tư, cho dù những phần này tốt hay mang đau đớn. Ngoài ra, bản chất của “Nhân quả” cũng có thể được hiểu là “thành quả” của “nhân loại”.
Tham khảo:
1.- Bouddhisme et Psychiatrie. 1992. Edt L'Harmattan, Paris.
2.- Psychothérapie bouddhique : méditation, éthique, liberté. 2002. Edt L’Harmattan, Paris.
3.- Éléments de psychologie de la vie du Bouddha. 2014. Edt L’Harmattan, Paris.
4.- Anthropologie bouddhique. Apprendre, comprendre, partager. 2018. Edt Les Impliqués, Paris.
(Hội thảo Hà Nôi 12/10/2022 ;Thành Phố HCM 02/11/2022)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Phật pháp trường tồn dưới nhãn quan của bậc minh quân
Nghiên cứu 15:27 15/11/2024Trong bài kệ “Bát Nhã” vua Lý Thái Tông đã khẳng định, để có được trí tuệ thì bản thân mỗi người phải tự thân tu luyện chứ không phải nhờ cầu viện kiến thức bên ngoài. Trong đạo Phật, để đạt tới cảnh giới giác ngộ thì cũng không có con đường nào khác ngoài chính bản thân phải tu tập.
Thiền sư Vạn Hạnh: Như sương trên cỏ, thịnh suy tĩnh lòng
Nghiên cứu 11:13 15/11/2024Thiền sư Vạn Hạnh là người rất chăm chỉ đèn sách, “học hỏi không biết mệt” (TUTA). Sau khi Thiền Ông tịch diệt, ông đã chuyên tâm tu về các loại thiền, đặc biệt là tập kinh Tổng trì tam ma địa, lấy đó làm sự nghiệp.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần
Nghiên cứu 09:40 15/11/2024Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.
Cuộc đời vô thường, bướm hoa chỉ là huyền ảo
Nghiên cứu 09:46 14/11/2024Sự sống và cái chết, sinh lão bệnh tử là sự tuần hoàn không thể thay đổi được của quy luật tự nhiên, là lẽ thường ai cũng phải trải qua. Quan niệm cuộc đời là huyễn ảo một lần nữa được đề cập tới trong bài kệ “Thị tật” - “Dạy khi có bệnh” của Thiền sư Giác Hải khi răn dạy đệ tử.
Xem thêm