Vị Quốc sư đầu tiên của Việt Nam - Thiền sư Khuông Việt
Ngày nay, rất ít người biết đến bài từ “Vương Lang Quy” tài tình mà Thiền sư Khuông Việt làm trong buổi tiễn sứ thần Trung Quốc về nước. Mỗi khi nhắc tới Thiền sư Khuông Việt, người ta vẫn thường nhắc tới Thiền sư như một vị quốc sư với tài năng ngoại giao lỗi lạc.
Danh tiếng cũng như huyền thoại về Thiền sư - tấm gương sáng về tinh thần đạo pháp dấn thân cùng dân tộc vẫn được lưu truyền từ ngàn đời nay trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Thiền sư Khuông Việt sinh năm 933, có tên tục là Ngô Chân Lưu - là cháu đích tôn của vua Ngô Quyền (Thiền sư là con trai cả của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, và là anh của sứ quân Ngô Xương Xí). Nhiều người biết rằng, Khuông Việt vốn chỉ là pháp hiệu, còn tên của ông là Ngô Chân Lưu. Tuy nhiên, có lẽ ít người biết rằng, Ngô Chân Lưu cũng chỉ là tên giả. Trên thực tế, Thiền sư Khuông Việt tên thật là Ngô Xương Tỷ. Quê ở làng Cát Lợi, phủ Thường Lạc, nay là xã Phục Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Đó là thời kỳ đất nước loạn lạc, chính thể chưa yên sau khi vua Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938) giành độc lập. Sau khi vua Ngô Quyền mất, lẽ ra cha của thiền sư là Ngô Xương Ngập nối ngôi nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi.
Thiền sư Khuông Việt là một đại trí thức, có công lớn trong việc dựng nước. Tư tưởng và học vấn uyên thâm của Ngài được hình thành và phát triển trên cơ sở của việc học tập Nho giáo sau đó là Phật giáo. Thời kỳ lịch sử cuối thế kỷ X và đầu thế kỷ XI ở nước ta, việc học chưa có điều kiện phát triển. Sau khi học Nho, Ngô Chân Lưu xuất gia tại chùa Phật Đà. Năm 20 tuổi, Thiền sư cùng trụ trì chùa Phật Đà đến chùa Khai Quốc (trước ngoài đê sông Hồng, nay là chùa Trấn Quốc) cầu pháp, thụ đại giới với Thiền sư Vân Phong. Sau đó, Thiền sư được truyền tâm ấn, trở thành vị tổ đời thứ tư dòng thiền Vô Ngôn Thông (dòng thiền vào nước ta năm 820, phát triển rực rỡ nhất vào thời Lý và là tiền thân của phái thiền Trúc Lâm - Yên Tử thời Trần sau này).
Thiền sư Khuông Việt là người xây dựng chùa Non Nước ở núi Vệ Linh (núi Sóc). Năm 969, vua Đinh Tiên Hoàng mời Ngài về Hoa Lư vấn thiền. Thấy Thiền sư quả thực thông tuệ, vua đã phong cho chức Tăng Thống và ban hiệu Khuông Việt tức Khuông phò nước Việt). Những buổi thiết triều, Ngài đều được dự bàn việc nước. Triều đại thay đổi, vua Lê Đại Hành nắm quyền, thiền sư Khuông Việt, Thiền sư Pháp Thuận vẫn là những trụ cột trí thức của triều đình.
Thiền sư được vua Lê Đại Hành phong làm Quốc sư vừa phụ trách việc tôn giáo vừa là cố vấn của vua. Quốc sư đã đóng góp nhiều kế sách về mưu lược, tổ chức kháng chiến chống quân Tống xâm lược và giành thắng lợi. Với tài ngoại giao, chính trị mưu lược của mình, Quốc sư Khuông Việt chủ trương hòa bình với nhà Tống, năm 986, Ngài và thiền sư Đỗ Pháp Thuận phụng mệnh vua tiếp Lý Giác là sứ giả của nhà Tống. Và Quốc sư đã viết bài từ “Vương Lang Quy” nổi tiếng để tiễn sứ giả của nhà Tống về nước. Khúc từ này vốn có tên là “Ngọc Lang Quy”, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành “Vương Lang Quy”. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao.
Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, Quốc sư Khuông Việt cùng Thiền sư Vạn Hạnh đã ủng hộ tích cực và suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, thế vận nước ngày một hưng thịnh, Quốc sư Khuông Việt đã dời bỏ triều đình về chùa mở trường đào tạo tăng tài. Người đệ tử nổi tiếng của Quốc sư là Thiền sư Đa Bảo - người có vai trò rất lớn đối với triều đình vua Lý Thái Tổ.
Ngày 15/2 năm Thuận Thiên thứ 2 tức năm 1011, khi sắp cáo tịch, Quốc sư dạy đệ tử Đa Bảo kệ rằng:
“Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng”.
Quốc sư Khuông Việt viên tịch ngày 22/3/1011 (âm lịch), thọ 82 tuổi, để lại các tác phẩm như: “Thiền uyển tập anh ngữ lục”, “Truyền đăng lục”, “Vương lang quy”.
Trải qua ba triều Đinh, Lê, Lý, với tầm kiến văn sâu sắc, uyên thâm đạo pháp, bằng uy tín và vị thế to lớn, Quốc sư Khuông Việt đã làm cho nước Đại Việt ngày một ổn định và hưng vượng. Có thể thấy cuộc đời của Thiền sư Khuông Việt là một tấm gương sáng về sự tu học và xả thân vì dân tộc.
Đã hơn 1000 năm kể từ ngày Thiền sư Khuông Việt viên tịch, nhưng những gì mà Ngài làm cho đạo pháp và dân tộc ta vẫn còn nguyên giá trị. Bây giờ và mãi mãi về sau, Ngài vẫn là một tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo. Để tri ân Thiền sư, nhiều địa phương đã lấy pháp danh của Ngài đặt tên đường, tên trường, tên tạp chí, thậm chí không chỉ trong nước ta mà ở Pháp (Paris) và Na Uy cũng có chùa mang danh của Thiền sư.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Ni trưởng Diệu Không và một đời bát kỉnh thị y
Chân dung từ bi 16:39 23/10/2024Ni trưởng Thích nữ Diệu Không là một trong những bậc danh Ni thời hiện đại của Phật giáo Việt Nam. Tuy xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc, nhưng Sư trưởng đã một lòng xả tục cầu chơn, xuất gia đầu Phật, hành Bồ-tát đạo.
Ni trưởng thượng Giác hạ Nhẫn và sự nghiệp “trồng người”
Chân dung từ bi 09:20 23/10/2024Vốn là một bậc thầy mô phạm của nhiều thế hệ Ni lưu suốt những năm tháng dài tại thế, Ni trưởng thượng Giác hạ Nhẫn (1919-2003) được biết đến như một ngôi sao sáng của Ni bộ Bắc Tông giữa thế kỷ XX.
Giáo sư Angraj Chaudhary: Ngài Thích Minh Châu mà tôi biết
Chân dung từ bi 10:45 22/10/2024Thư của Giáo sư Angraj Chaudhary được dịch và đọc tại Hội thảo về Trưởng lão HT. Thích Minh Châu (1918-2012) vào ngày 20/10/24 tại Pháp viện Minh Đăng Quang, nhân dịp Lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (1989-2024) vào ngày 19-20/10/2024.
Nhớ về Hòa thượng Thích Minh Châu - Đường Tăng của Việt Nam
Chân dung từ bi 08:05 19/10/2024Những ngày này tôi dành trọn thời gian để đọc lại, tư duy, suy ngẫm, trải nghiệm một số bản Kinh trong Nikaya gồm Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ.
Xem thêm