Vô ngã (Phần 3)
Bài viết này chú trọng vào giai đoạn chuyển hóa từ Lý giải đến Hành trì lý Vô ngã. Thực nghiệm được Vô ngã thì kiện toàn luôn vô thường và Vô lạc.
Khổ
Pháp ấn thứ ba này có danh xưng thường gọi là khổ, cũng gọi là Tịch diệt, diễn tả thực nghĩa là Vô lạc. Cả ba pháp ấn đều gọi bằng tiếng ghép đôi Vô thường, Vô ngã, Vô lạc, đều bắt đầu bằng Vô, nhấn mạnh vào tự tánh không trong vạn pháp. Người vô minh chưa sáng tỏ được lý Chân Không nên cảm nhận thấy Khổ, khi thực chứng được Vạn pháp giai không thì hết khổ, tức chứng nhập Tịch diệt.
Thực nghĩa Vô lạc cần được lý giải chính xác, phân biệt Chân lạc với Giả lạc: Vạn pháp đều không, nghĩa là không khổ, không lạc. Trường hợp chấp vào giả tướng khổ thì sanh phiền não khi cố gắng chịu đựng, trường hợp chấp vào giả tướng lạc (Giả lạc) thì sanh tiếc nuối khi không còn nữa. Chỉ khi nào ly tướng, không còn chấp tướng nữa thì mới thực chứng được Tịch diệt, mới cảm nhận thấy an nhiên tự tại. Đây là sự vui sướng thực sự (Chân lạc), vui sướng trong an nhiên không phát sanh tham dục vọng động, Phật học gọi là Tịnh lạc. Đây là trường hợp người ngộ đạo, đã thực chứng diệt khổ hội nhập vào Pháp giới Chân không, cũng gọi là Nhập diệt Niết-bàn, nói nôm na là cảm nhận thấy tâm Thường Lạc trong cuộc sống hàng ngày ở cõi thế gian.
2. Hành trì
Tiến trình tu học tóm tắt ngắn gọn gồm bốn giai đoạn Tín, Giải, Hành và Chứng. Nói rõ ràng hơn, bốn giai đoạn dẫn giải như sau:
- Khởi tín tâm do nhân lành và pháp duyên hội kết,
- Lý giải để thấu hiểu tường tận lời Phật dạy,
- Hành trì để thực nghiệm điều đã lý giải thông suốt,
- Chứng ngộ đạo pháp, chuyển hóa tâm từ Vô minh thành Đại giác.
Bài viết này chú trọng vào giai đoạn chuyển hóa từ Lý giải đến Hành trì lý Vô ngã. Thực nghiệm được Vô ngã thì kiện toàn luôn vô thường và Vô lạc. Chỉ cần thực nghiệm được một trong ba pháp ấn thì đương nhiên thông suốt luôn hai pháp an còn lại. Tùy theo căn cơ duyên nghiệp của mỗi người khác nhau, hành giả chọn pháp ấn nào để hành trì đều được cả, cứu cánh chứng ngộ đều giống nhau. Nội dung bài viết này chỉ là một trường hợp thực tập hành trì có tánh chất điển hình, ứng dụng ở người có trung căn, duyên nghiệp thông thường.
Nội dung từ ngữ Ngã
Ngã là tiếng Hán Việt, nôm na gọi là TA, tiếng Sanskrit là àtman, Pali là attà, có nội dung chỉ thể tánh thường tồn, không bị tác động của lý duyên sanh, không theo quá trình chuyển hóa sanh, trụ, hoại, diệt.
Giáo lý đạo Phật không công nhân sự hiện hữu của Ngã. Toàn thể hiện tượng vật lý và tâm lý đều không có chủ thể độc lập, thường hằng. Theo đạo Phật, khái niệm cho rằng có Ta, có Người là do Vô minh khởi động, do si mê sanh ra. Đây là sự vận hành của Ý thức (thức thứ sáu trong Lục thức) căn cứ vào khả năng suy nghĩ phân biệt trong thế giới nhị nguyên, có Ta có Người, có Năng có Sở, có Chủ thể có đối thể. Tâm thức phân biệt trong cuộc sống hàng ngày làm cho người Vô minh chấp vào cái Ta, sanh ra những ý nghĩ: Ta yêu cái này, người này; Ta ghét cái này, người này; cái này là của Ta, cái này là của Người. Cái Ta này thống trị cuộc sống tâm linh người Vô minh, trực tiếp dẫn người này đến khổ não, xa rời Chân tánh Thanh tịnh ở con người. Hành giả thực chứng lý Vô ngã sẽ tự độ cho mình giải thoát khỏi hết mọi khổ não.
Từ ngữ ngã vốn là tiếng Hán Việt, thường diễn thành ba tiếng nôm khác nhau, người thiện học cần lưu tâm khi dùng tiếng nôm cho đúng với ý của mình muốn truyền đạt diễn tả:
Tôi là tiếng tự xưng đối với tha nhân diễn ý phân biệt chủ thể và đối thế đều là người chỉ định trong môi trường sinh hoạt cộng đồng xã hội.
Ta là tiếng tự xưng chỉ chung con người phiếm định, không phải chủ thể và đối thể là người chỉ định, nhưng vẫn diễn ý phân biệt bên nói bên nghe.
Mình là tiếng tự xưng không còn phân biệt chủ thể và đối thể. Hai bên Ta và Người, Năng và Sở đã hội nhập làm Một, mình nói cho chính mình nghe, mình tự nhủ với lòng mình. Trường hợp này Phật học gọi là tự quán hay nội quán ứng dụng khi hành giả sám hối, phát nguyện.
Nói cách khác, Tôi và Ta diễn tả nội dung tương đương như Vọng ngã, Giả ngã, Mình diễn tả nội dung tương đương như Chân ngã, Như Lai tánh, Chân tâm, Phật tánh, Phật tâm... Ba thí dụ cụ thể như sau:
- Được anh giúp đỡ lúc hoạn nạn, tôi không bao giờ quên ơn anh.
- Gặp lúc hoạn nạn được người giúp đỡ, ta nhớ mãi không quên ơn người thi ân.
- Hết lòng giúp đỡ kẻ hoạn nạn là mình tự tạo cho mình niềm vui sống, đó là Hỷ tâm của người hành trì Phật pháp. (còn tiếp)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Nghiên cứu 09:45 03/11/2024Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...
Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo
Nghiên cứu 09:45 19/10/2024Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.
Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội
Nghiên cứu 09:30 06/10/2024Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.
Vài suy nghĩ về quyền động vật trong kinh, luật Phật giáo
Nghiên cứu 19:05 21/09/2024Cảnh giới trí tuệ của chư Phật đã thấy và biết như thật rằng “tất cả mọi loài chúng sanh đều có tính Phật”, do đó, họ cần phải được tôn trọng, bảo tồn và thương yêu bình đẳng. Nói cách khác, từ tuệ giác của Đức Phật, Ngài đã thừa nhận “quyền động vật” nói riêng và muôn loài chúng sanh nói chung.
Xem thêm