Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ ba, 26/04/2022, 23:42 PM

Vô ngã (Phần 3)

Bài viết này chú trọng vào giai đoạn chuyển hóa từ Lý giải đến Hành trì lý Vô ngã. Thực nghiệm được Vô ngã thì kiện toàn luôn vô thường và Vô lạc.

Khổ

Pháp ấn thứ ba này có danh xưng thường gọi là khổ, cũng gọi là Tịch diệt, diễn tả thực nghĩa là Vô lạc. Cả ba pháp ấn đều gọi bằng tiếng ghép đôi Vô thường, Vô ngã, Vô lạc, đều bắt đầu bằng Vô, nhấn mạnh vào tự tánh không trong vạn pháp. Người vô minh chưa sáng tỏ được lý Chân Không nên cảm nhận thấy Khổ, khi thực chứng được Vạn pháp giai không thì hết khổ, tức chứng nhập Tịch diệt.

Thực nghĩa Vô lạc cần được lý giải chính xác, phân biệt Chân lạc với Giả lạc: Vạn pháp đều không, nghĩa là không khổ, không lạc. Trường hợp chấp vào giả tướng khổ thì sanh phiền não khi cố gắng chịu đựng, trường hợp chấp vào giả tướng lạc (Giả lạc) thì sanh tiếc nuối khi không còn nữa. Chỉ khi nào ly tướng, không còn chấp tướng nữa thì mới thực chứng được Tịch diệt, mới cảm nhận thấy an nhiên tự tại. Đây là sự vui sướng thực sự (Chân lạc), vui sướng trong an nhiên không phát sanh tham dục vọng động, Phật học gọi là Tịnh lạc. Đây là trường hợp người ngộ đạo, đã thực chứng diệt khổ hội nhập vào Pháp giới Chân không, cũng gọi là Nhập diệt Niết-bàn, nói nôm na là cảm nhận thấy tâm Thường Lạc trong cuộc sống hàng ngày ở cõi thế gian.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

2. Hành trì 

Tiến trình tu học tóm tắt ngắn gọn gồm bốn giai đoạn Tín, Giải, Hành và Chứng. Nói rõ ràng hơn, bốn giai đoạn dẫn giải như sau:

- Khởi tín tâm do nhân lành và pháp duyên hội kết,

- Lý giải để thấu hiểu tường tận lời Phật dạy,

- Hành trì để thực nghiệm điều đã lý giải thông suốt,

- Chứng ngộ đạo pháp, chuyển hóa tâm từ Vô minh thành Đại giác.

Bài viết này chú trọng vào giai đoạn chuyển hóa từ Lý giải đến Hành trì lý Vô ngã. Thực nghiệm được Vô ngã thì kiện toàn luôn vô thường và Vô lạc. Chỉ cần thực nghiệm được một trong ba pháp ấn thì đương nhiên thông suốt luôn hai pháp an còn lại. Tùy theo căn cơ duyên nghiệp của mỗi người khác nhau, hành giả chọn pháp ấn nào để hành trì đều được cả, cứu cánh chứng ngộ đều giống nhau. Nội dung bài viết này chỉ là một trường hợp thực tập hành trì có tánh chất điển hình, ứng dụng ở người có trung căn, duyên nghiệp thông thường.

Nội dung từ ngữ Ngã 

Ngã là tiếng Hán Việt, nôm na gọi là TA, tiếng Sanskrit là àtman, Pali là attà, có nội dung chỉ thể tánh thường tồn, không bị tác động của lý duyên sanh, không theo quá trình chuyển hóa sanh, trụ, hoại, diệt.

Giáo lý đạo Phật không công nhân sự hiện hữu của Ngã. Toàn thể hiện tượng vật lý và tâm lý đều không có chủ thể độc lập, thường hằng. Theo đạo Phật, khái niệm cho rằng có Ta, có Người là do Vô minh khởi động, do si mê sanh ra. Đây là sự vận hành của Ý thức (thức thứ sáu trong Lục thức) căn cứ vào khả năng suy nghĩ phân biệt trong thế giới nhị nguyên, có Ta có Người, có Năng có Sở, có Chủ thể có đối thể. Tâm thức phân biệt trong cuộc sống hàng ngày làm cho người Vô minh chấp vào cái Ta, sanh ra những ý nghĩ: Ta yêu cái này, người này; Ta ghét cái này, người này; cái này là của Ta, cái này là của Người. Cái Ta này thống trị cuộc sống tâm linh người Vô minh, trực tiếp dẫn người này đến khổ não, xa rời Chân tánh Thanh tịnh ở con người. Hành giả thực chứng lý Vô ngã sẽ tự độ cho mình giải thoát khỏi hết mọi khổ não.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Từ ngữ ngã vốn là tiếng Hán Việt, thường diễn thành ba tiếng nôm khác nhau, người thiện học cần lưu tâm khi dùng tiếng nôm cho đúng với ý của mình muốn truyền đạt diễn tả:

Tôi là tiếng tự xưng đối với tha nhân diễn ý phân biệt chủ thể và đối thế đều là người chỉ định trong môi trường sinh hoạt cộng đồng xã hội.

Ta là tiếng tự xưng chỉ chung con người phiếm định, không phải chủ thể và đối thể là người chỉ định, nhưng vẫn diễn ý phân biệt bên nói bên nghe.

Mình là tiếng tự xưng không còn phân biệt chủ thể và đối thể. Hai bên Ta và Người, Năng và Sở đã hội nhập làm Một, mình nói cho chính mình nghe, mình tự nhủ với lòng mình. Trường hợp này Phật học gọi là tự quán hay nội quán ứng dụng khi hành giả sám hối, phát nguyện.

Nói cách khác, Tôi và Ta diễn tả nội dung tương đương như Vọng ngã, Giả ngã, Mình diễn tả nội dung tương đương như Chân ngã, Như Lai tánh, Chân tâm, Phật tánh, Phật tâm... Ba thí dụ cụ thể như sau:

- Được anh giúp đỡ lúc hoạn nạn, tôi không bao giờ quên ơn anh.

- Gặp lúc hoạn nạn được người giúp đỡ, ta nhớ mãi không quên ơn người thi ân.

- Hết lòng giúp đỡ kẻ hoạn nạn là mình tự tạo cho mình niềm vui sống, đó là Hỷ tâm của người hành trì Phật pháp. (còn tiếp)

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala

Nghiên cứu 10:10 05/04/2024

Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.

Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người

Nghiên cứu 18:00 02/04/2024

Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.

A lại da thức và Mạc na thức

Nghiên cứu 09:00 16/03/2024

Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.

Kinh Pháp Hoa: Ánh sáng nhân bản và hòa bình

Nghiên cứu 12:00 18/02/2024

Kinh Pháp hoa (Saddharma puṇḍarīka Sūtra) là một trong những bộ kinh thuộc truyền thống Đại thừa (Mahāyāna), hay còn gọi là Phật giáo Phát triển.

Xem thêm