Trước khi đặt bút viết bài này, ngoài một số vốn liếng ít ỏi tri thức Phật học, chúng tôi đã tham cứu nhiều tài liệu, kinh sách có liên quan đến ý ngĩa lễ Vu Lan - Rằm tháng Bảy. Nhưng tựu trung và cộng lại, chúng tôi chỉ toát lên một ý niệm sống thực tại trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà với những tài liệu phong phú kia đã nêu bật được chất keo gắn bó giữa ảnh hưởng Phật giáo đối với xã hội, con người qua nhiều thời đại.
Vâng! Những điều đó, các bậc thức giả, các bậc sư trưởng đều đã nói hết rồi, không còn khe trống để người hậu sinh chúng tôi góp phần tô điểm. Đã đẹp, đã trở thành điều hiển nhiên rồi; hiển nhiên tới mức đôi khi chúng ta quên rằng chính nó đã trở thành ca dao dân tộc:
Tháng Sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân
Nó không phải là thứ ca dao biền ngẫu hay đệm vần cho qua câu để tạo mở, tôn tạo cho ý đồ chính. Không viết đủ hẳn chúng ta chúng ta cũng biết đó là ca dao kiểu "liên khúc" nói về sinh hoạt 12 tháng của một năm mà nền văn minh nông nghiệp nơi xã hội Việt Nam ta xưa nay không thể chối cãi được. Đã vậy, "tháng Bảy ngày Rằm...", câu này nổi bật nhất không chỉ vì nó nói lên ý nghĩa về một ngày lễ của Phật giáo (PG), mà còn đưa ra tính nghiêm túc, thể hiện cho một cách sống cộng đồng, ngoài sinh hoạt, ăn uống, vui chơi, mùa màng và thời tiết so với 11 tháng kia. Nó đã trở thành lịch sinh hoạt hàng năm của dân tộc ta, kể từ khi dấu chân, tích trượng các Thiền sư đã đến xứ sở Giao Châu non 20 thế kỷ qua.
Điều đó cho biết PG đã biết vặn mình "nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục" hoàn toàn hợp lý, hợp lẽ, không gây ra sự dị ứng đối kháng. Do vậy, không phải dễ dàng "được" có mặt trong ca dao, trong tâm khảm đời sống dân tộc, mà bất kỳ sự gượng ép, gò chế cố tình đạt được điều đó sẽ trở thành nạn nhân của bánh xe lịch sử nghiền nát. Đặc biệt hơn, sự có mặt của PG trong ca dao 12 tháng kia và ngay trong nếp sống dân tộc, còn mang một ý nghĩa to lớn khác, thể hiện được tính chân lý thực tiễn, vượt lên trên sự tôn kính thời nguyên sơ, khi con người tự cho mình còn nhỏ bé trước thiên nhiên.
Đó là thời kỳ dựng nước họ Hồng Bàng mà sách Lĩnh Nam chích quái đã kể lại, cái thời kỳ mà chính Lạc Long Quân phải dùng đến vạn phép thần thông biến hóa mới đuổi được tên xâm lược phía Bắc đầu tiên là Đế Lai ra khỏi bờ cõi. Và cái thời mà mọi thứ yêu tinh thường xuất hiện quấy nhiễu dân lành, để nỗi sợ hãi phải tôn lên hàng thần thánh, kể cả tiếng sấm sét. Thần sông, thần biển, núi, gió, lửa ... đã có mặt chễm chệ trước sự quy phục con người thờ lạy.
Muốn sống còn, muốn sống để dựng nước, giữ nước, con người lúc ấy khi lên rừng, xuống biển, tất phải xăm mình hình ảnh Thủy quái, Sơn tinh v.v...? Như vậy, lịch sử PGVN có mặt và phát triển chỉ bằng phân nửa lịch sử dựng nước của con cháu Lạc Long Quân, ngẫu nhiên đánh bại Sơn tinh, Thủy quái từ trong truyền thuyết, đời sống, lẫn trong tâm khảm con người và tôn tạo được một ý sống mới phù hợp với lòng người, với sự khổ đau và với hiện trạng cuộc sống đương thời.
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, PG đã hòa mình gắn liền vận mệnh như một định lý không thể tách rời, xứng đáng với phạm trù đạo pháp và dân tộc, đó là sự thật được lịch sử chứng minh cái PG có.
Lễ Vu Lan - Rằm tháng Bảy được xác lập từ trong ý nghĩa đó. Tình cảm và đạo lý dân tộc ta vẫn luôn rộng mở; với thù, với bạn cũng cùng "chung nước mắt mặn, máu đỏ" như nhau. Những "thương người như thể thương thân", "mình với ta tuy hai mà một...", "Bầu ơi, thương lấy bí cùng" v.v…, há chẳng phải đạo lý PG đó sao? Cũng như trước mọi hoàn cảnh bi thương nào đó, từ của miệng dân ta há đã chẳng thốt ra lời đầu tiên là "tội nghiệp", làm ý nghĩa hàm ý to lớn, biểu lộ lòng lan mẫn, tương thân tương ái đó sao?
Nói một cách khác, PG đã đáp ứng được một phần rất lớn tình cảm và niềm tin trong cộng đồng dân tộc, đã trở nên hòa nhập mật thiết trong mọi lĩnh vực. Dù không PG, đến Rằm tháng Bảy, ai ai cũng đều tỏ ra tha thiết với ý nghĩa hiếu để, cũng như xá tội vong nhân đối với thế giới xa xăm nào đó; tùy theo trình độ nhận thức cảnh giới địa ngục.
Cho nên nếu hiểu theo quan niệm vượt hóa, chúng ta sẽ dễ dàng cảm nhận những dòng sau đây của cố HT.Thích Trí Thủ (đăng trong Nội san Bát Nhã số 5 của tổng vụ Tài chánh, trước năm 1975): "Những cơn mưa dầm của tháng Bảy, trời âm u, bão và lụt đã bắt đầu, ngày dại của mùa hè rút ngắn lại; trời đất đang xoay tới khoảng thăng bằng, làm nhịp cầu giao cảm thiên thu giữa cõi sống và cõi chết. Người chết đã buông tay rũ sạch những tham vọng của một đời, cho lá vàng rụng xuống. Người sống vẫn tiếp tục lượm nhặt lá vàng, xây những tham vọng cuồng dại mới. Kiếp luân hồi kéo dài bất tận, người sống và kẻ chết nối nhau thành một "đoàn vô tư lạc loài nheo nhóc", cùng lang thang vô định trên "con đường bạch dương bóng chiều man mác".
Rằm tháng Bảy, một ngày hội âm thầm của những oan hồn mà sống đã không nói được khát vọng của mình và chết cũng không có lời để ta thán. Nếu dương gian còn phảng phất một chút tình người, còn tưởng nhớ đến ân tình một thuở, thì một hạt muối và một bát nước trong cũng đủ rửa sạch cái oan khí tương triền ngàn năm treo ngược.
"Vu Lan thắng hội, ngày hội" cứu đảo huyền, ngày giải tỏa oan khiên treo ngược tội nhân trên rừng đao, biển lửa. Trong ngày đó, mười phương chư Phật đều nở nụ cười hoan hỷ, vì là ngày tha thứ giữa những người còn sống, biết cởi bỏ hận thù ràng buộc để sống, còn có ngày hội nào vui hơn, trước cái hứa hẹn một thế giới thanh bình có thể có? Oan khiên trở thành ân nghĩa. Ân của trời đất, ân của cỏ cây, ân của đồng loại; ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp, sao nhất thời lại có thể hờ hững trôi qua?
"Trong khoảng trời đất mịt mù, giữa những đêm dài lạnh lẽo, người chết còn biết trở lại dương gian xin một bát nước để rửa sạch oan khiên treo ngược, há người sống lại không biết âm thầm nở nụ cười hoan hỷ và tha thứ ?"
Đọc những dòng trên bằng cả một tấm lòng vị tha rộng mở, chúng ta đã thấy ra được phần nào ý nghĩa to lớn của ngày lễ Vu Lan. Như vậy, địa ngục thường mang ý nghĩa của một vai trò chủ đạo khi nhắc đến Vu Lan Rằm tháng Bảy. Từ đó chúng ta khởi niệm và đồng cảm với tha nhân một cách dễ dàng, bởi địa ngục có là do sự cảm vời mà ra, như kinh Địa Tạng thường được đức Phật lặp lại nhiều lần. Hay nói như một danh nhân thế giới: "Địa ngục là do chân lý được nhìn ra quá trễ". Do đó, Tagore - nhà thơ lẫy lừng của Ấn Độ từng biểu cảm bằng ngôn ngữ triết lý qua câu nói: "Trong cái chết thì nhiều biến thành một, trong sự sống thì một biến thành nhiều".
Thương yêu vượt qua biên giới của sự sống chết, mà địa ngục chỉ là phạm trù gạch nối, không phải là dấu chấm hết, khẳng định. Cúng Rằm tháng Bảy có nghĩa là chia sớt sự sống cho cảnh giới khác mà nhân gian thường gọi "cô hồn, uổng tử" còn vất vưởng chờ thọ và định nghiệp. Từ đó con người khi quay lại cuộc sống đời thường, chắc rằng không ai là không lân cảm với đồng loại. Ý nghĩa đó là một chân lý tuyệt hảo của nhân loại đã sống và đã thực hành dù không cùng chính kiến, giai cấp xã hội hay bất kỳ chủ thuyết tôn giáo nào. "Một ngày mà chúng ta không thắp lên ngọn lửa thương yêu, vì thế biết bao người chết vì giá lạnh" - Francois Mauriac cũng đã thốt lên như vậy.
Dân tộc chúng ta vốn có truyền thống đạo đức cao thượng, hiếu ân vẹn toàn, khi tiếp nhận tư tưởng PG nói chung và lễ Vu Lan nói riêng, đó há chẳng là sự dung nạp lý tưởng đạo đức thuần nhất để trở nên nếp sống chung cộng đồng? Tuy nhiên, sự hòa nhập đó trong quá trình phát triển vẫn không tránh khỏi sự đố kỵ đôi lúc đưa đến nguy vong từ phía các tư tưởng Nho - Khổng giáo. Mặc dù hệ tư tưởng này không mấy khác biệt với PG, phần lớn đều nằm vào nền tảng đạo đức phương Đông, nhưng ở PG thì phóng khoáng hơn, cởi mở hơn, nên những đối kháng kia chỉ là trở ngại nhất thời trong lịch sử.
Dù vậy, khi lên ngôi quốc giáo, nói đúng hơn là khi thời kỳ PG hưng thịnh bởi các hàng quan quân đến vua chúa đều tín hướng PG, vẫn không ỷ thế cậy quyền đè bẹp các tư tưởng khác, ngược lại còn chủ trương "tam giáo đồng nguyên". Những tư tưởng bài xích đạo Phật của Trương Hán Siêu trong Linh Tế tháp ký, Quang Nghiêm tự bi văn; Hàng Dũ (Trung Quốc, 768-823) với bài biểu Can vua đón xương (Xá Lợi) Phật; Lê Quát Mai Phong với bài Văn bia chùa Thiệu Phúc thôn Bái, tỉnh Bắc Giang v.v… đã không đủ sức đánh bạt làn gió đạo đức PG đang thổi đến khắp mọi nơi, từ kinh thành đến những làng quê hẻo lánh.
Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi tác giả bài “Gia huấn ca” là Nguyễn Trãi, bậc đại công thần nhà Lê, ra đời với nội dung "thương người như thể thương thân" phủ trùm tinh thần vị tha của PG. Chưa hết, trong kho tàng cổ tích Việt Nam không hiếm chuyện kể nhắc đến vai trò ông Bụt (một dạng phương ngữ hóa từ chữ Phật) luôn che chở và giúp đỡ người hiền, đặc biệt là truyện "Sự tích cây nêu ngày tết", chiếc y vàng của Phật với cái bóng của nó là dải đất yên lành cho người dân sinh sống. Đó là những tiềm ẩn sâu sa minh chứng cho sự trường tồn PG.
Đại văn hào của dân tộc ta: Cụ Tố Như Nguyễn Du, ngoài tác phẩm bất hủ Truyện Kiều, trong đó tác giả đều lấy triết lý PG là nền tảng, ngay đoạn mở đầu đã phải dùng đến tư tưởng "tài mệnh tương đố" và kết thúc bằng nhận định "nhân quả" hẳn hoi. Do đó, không phải ngẫu nhiên khi tác giả cho rằng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài
(Truyện Kiều, câu 3249-3252)
Bên cạnh đó còn phải kể đến bài Văn tế thập loại chúng sinh. Đọc bài này, người ta càng ngạc nhiên hơn nếu cho rằng Nguyễn Du viết truyện Kiều vì ảnh hưởng PG. Bởi vì ngôn ngữ và ngụ ý của bài Văn tế thập loại chúng sinh vô cùng chính xác, từ cách diễn đạt các thế giới cho đến tinh túy Phật học, mà nếu không biết rõ gốc tích tác giả, người ta dễ sai lầm cho đó là của một vị tăng nào đó viết. Thí dụ :
Trời tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dịp đường đê lác đác sương sa
Lòng não lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khí thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người...
... Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sanh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có của cùng không
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Trên đây là một vài tiêu biểu cho sức sống PGVN mãnh liệt trong lòng dân tộc, đã tạo nên nét đẹp truyền thống văn hóa chung từ bao nhiêu thế kỷ nay. Vì thế, ngày Rằm tháng Bảy - lễ Vu Lan không còn của riêng Phật giáo, mà đã trở thành "lịch sinh hoạt" hàng năm. Và cũng có thể đánh giá theo cách nói của giáo sư Hoàng Như Mai trong bài "Lễ Vu Lan và tình thương của nhân dân ta" (đăng trong Tập văn Vu Lan 2531-1987) rằng: "Ngày lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy, ngày xá tội vong nhân có thể được coi là ngày tình thương Việt Nam vì con người, vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ cho loại con người.
Có thể ý nghĩa hơn trong việc đúc kết thêm nhận định đó và để tôn tạo thêm giá trị nhân gian, dân tộc đã dung chứa tinh thần PG, chúng ta hãy đọc lời phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước ta được TTXVN phát đi và báo Sài Gòn Giải Phóng đăng lại dưới tựa đề "Về vấn đề Tôn giáo ở Việt Nam" ngày 26/01/1995, trong đó phần nhận định có đoạn: "... Phật tử VN là những người yêu nước, luôn luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CÒN LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG?"(Chúng tôi viết hoa - DKT).
Với niềm tin son sắt đó, với lòng tín hướng Phật đà, một lần nữa chúng ta đón mừng ngày lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy, trên đất nước Việt Nam thân yêu với đầy đủ sự tự hào hãnh tiến cùng dân tộc.
Giác Đạo Dương Kinh Thành