Thứ năm, 11/09/2025, 09:43 AM

Vui thay sống biết đủ

Sống biết đủ, hay thể hiện nếp sống thiểu dục tri túc, được xem là lẽ sống sáng suốt, có cân nhắc trong quan niệm của đạo Phật. Người con Phật được khuyên sống biết đủ hay thực hành thiểu dục tri túc, vì đó là lẽ sống sáng suốt đem đến an lạc cho đời sống của con người. Sáng suốt bởi đó là lẽ sống tỉnh táo lưu xuất từ sự nhận thức rõ về bản chất tương đối và giới hạn của hiện hữu.

An lạc vì đó là lối sống không bị lòng tham làm cho quay cuồng, làm cho vùng vẫy, làm cho mệt mỏi, làm cho vất vả. Đó là nếp sống trí tuệ, là lẽ sống giác ngộ, thanh thản giữa cuộc đời.

Vui thay sống biết đủ 1
Ảnh minh hoạ.

Trong cách nhìn của đạo Phật thì sở dĩ con người cứ vướng vào vòng luẩn quẩn khổ đau, ấy là do không trang bị cho mình một nhận thức đúng đắn và không tập cho mình một lối sống chừng mực. Hết thảy mọi thứ trên cuộc đời, kể cả bản thân mỗi người, đều tương đối và giới hạn, vì không có cái gì tồn tại mãi và không ai vượt qua được giới hạn của sự sống. Sự đời tốt hay xấu, được hay mất chỉ là các hiện tượng do duyên sanh, thường xuyên thay đổi, không có tính cách trường cửu, vì thế con người nên học cách “biết đủ” (đối với cái có được và cả cái không có được) để cho tâm hồn được thanh thản và cần nhận ra cái bản chất giới hạn, vô thường, bất toại của hiện hữu để bớt phản ứng quay cuồng. Vì cuộc đời vốn đã hữu hạn thì có tham muốn vùng vẫy thế nào cũng không ra ngoài giới hạn ấy, trái lại chỉ làm cho sự sống càng thêm phức tạp và mệt mỏi. Đạo Phật xem mọi phản ứng thiếu cân nhắc, hoặc thuận ứng (hân hoan) hoặc nghịch ứng (bực phiền), đối với thực tại sanh diệt của hiện hữu đều là mê lầm, đưa đến khổ đau, cho rằng con người cần sáng suốt nhận ra bản chất hữu hạn của cuộc đời để định hướng cho lối sống an lạc của chính mình. Phải biết vận dụng cái hữu hạn ấy để thiết lập lối sống chân chánh đưa đến an lạc: “Ví như, này Bà-la-môn, con bò cái sắp bị giết, được dắt đến lò thịt, mỗi bước chân giơ lên là bước gần đến bị giết, gần đến chết. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví dụ với con bò cái sắp bị giết là đời sống con người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Hãy giác ngộ, hãy làm điều lành, hãy sống Phạm hạnh. Với người đã sanh, không có bất tử”1.

Theo quan điểm của đạo Phật thì cuộc sống vốn bị chi phối bởi quy luật sanh diệt, cái gì có sanh ra thì có biến diệt; vì thế con người không nên để cho lòng tham dẫn dắt và sai sử, khiến cho đời sống trở nên quay cuồng và mệt mỏi, thay vào đó, con người cần hạn chế lòng tham, tập sống tri túc để có được sự thanh thản an lạc. Tôn giả Ratthapàla trả lời cho nhà vua Koravya xứ Kuru về lý do xuất gia, thực thi nếp sống thiểu dục tri túc của mình:

Ta thấy người giàu sang ở đời,

Có của, vì si không bố thí.

Vì tham, họ tích tụ tài vật,

Và chạy theo dục vọng càng nhiều.

Dùng bạo lực, chinh phục quả đất,

Vua trị vì cho đến hải biên,

Không thỏa mãn bờ biển bên này,

Và chạy theo bờ biển bên kia.

Vua cùng rất nhiều loại người khác,

Ái chưa ly, mạng chung đã đến,

Bị thiếu thốn, không bỏ thân họ,

Không thỏa mãn lòng dục ở đời.

Tài sản không mua được trường thọ,

Phú quý không tránh được già suy,

Kẻ trí nói đời này thật ngắn,

Thật vô thường, biến đổi luôn luôn.

Dục vọng nhiều loại, ngọt, khả ái,

Nhiễu loạn tâm dưới nhiều hình thức,

Thấy hoạn nạn trong dục trưởng dưỡng,

Nên tôi xuất gia, tâu Đại vương!

Nhưng thế nào là sống biết đủ? Thông thường, người ta hiểu biết đủ hay thiểu dục tri túc như là một quan niệm tiêu cực vì nó kêu gọi thái độ bi quan, không khuyến khích con người nỗ lực hành động; cụ thể là không khuyến khích việc tạo ra của cải vật chất. Sự hiểu biết phiến diện và nhầm lẫn như vậy đã từng xảy ra ngay trong lúc Phật còn tại thế. Người ta xem Đức Phật là tiêu cực vì Ngài giảng dạy lý thuyết không hành động (akiriya)2, thậm chí còn phê phán Ngài là người phá hoại sự sống vì Ngài chủ trương nhiếp phục các căn3. Đây là cách hiểu không đầy đủ và không chính xác về quan niệm sống biết đủ được nói đến trong đạo Phật. Không một chỗ nào trong kinh sách Phật giáo bảo con người quay lưng lại với lao động hợp pháp hoặc kêu gọi con người nhịn đói để được giác ngộ. Rõ là thái độ lười biếng không có chỗ đứng trong đạo Phật. Trong quá trình tu học đạt đến giác ngộ của người Phật tử, Chánh tinh tấn (Sammà viriya) đóng vai trò quan trọng xuyên suốt cả tiến trình. Để chiến thắng tham-sân-si, có được sự thăng tiến về giới đức, tâm đức và tuệ đức, đạt đến cứu cánh giác ngộ, người Phật tử phải nỗ lực rất lớn trong đời sống tu tập hàng ngày. Họ phải thường xuyên cân nhắc giữa cái thiện để theo và cái ác để từ bỏ. Đức Phật khuyến cáo các học trò mình không hành động đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; nhưng khuyến khích họ phải nỗ lực hành động đối với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện4. So với những người còn mê đắm trong vòng danh lợi thế gian, được xem như đang dẫm chân ở dưới chân đồi, người học tu theo giáo pháp của Phật được ví như người nỗ lực leo lên núi cao; nhờ tinh tấn, vị ấy dần dần lên tới đỉnh núi, có thể nhìn xa trông rộng, cảm nghiệm nhiều điều mới lạ hơn so với tầm nhìn bị che khuất của kẻ đứng dưới chân đồi5. Vì vậy, biết đủ trong đạo Phật là một lẽ sống sáng suốt và mạnh mẽ. Đó là thái độ biết đủ đối với những điều kiện duy trì sự sống (ăn, mặc, ở, phương tiện trị bệnh), không tham lam tìm cầu và hưởng thụ tài vật, dành nhiều thời gian và nghị lực cho việc hoàn thiện đạo đức, tâm thức và trí tuệ để đi đến giác ngộ, giải thoát hoàn toàn mọi mê lầm khổ đau.

Đáng chú ý rằng Đức Phật dạy các đệ tử mình sống biết đủ theo kinh nghiệm của một bậc Giác ngộ. Kinh nghiệm ấy là hoàn toàn mới mẻ, vượt quá sự hiểu biết và kinh nghiệm thường tình của thế gian. Đó là trí tuệ biết rõ thế nào là khổ và thế nào là giải thoát khổ đau. Có hai lý do khiến đấng Giác ngộ chủ trương thiểu dục tri túc và khuyên nhắc mọi người thực tập thiểu dục tri túc:

Thứ nhất, Phật thấy rõ tính chất giới hạn và khổ đau của cuộc đời, cơ bản do lòng tham hay dục vọng gây ra, nên khuyên nhắc mọi người hạn chế lòng tham, thực hành thiểu dục tri túc để tránh rơi vào mê lầm khổ đau6. Trong cách nói của Ngài, Phật gọi một người còn tham muốn chạy theo danh lợi thế gian là kẻ mê lầm khổ đau, vì “tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm”7.

Thứ hai, Phật chứng ngộ Niết-bàn, không còn khổ đau nhờ nhiếp phục lòng tham, thực hành thiểu dục tri túc, phát huy Giới-Định-Tuệ; vì vậy Phật khuyên mọi người hạn chế lòng tham, thực hành nếp sống biết đủ để dần dần đi ra khỏi mê lầm khổ đau giống như Phật. Nói cách khác, Phật thấy rõ có một lối sống thoát ly phiền não mà con người có thể thành tựu, đó là nhận ra tính chất vô thường khổ đau của hết thảy hiện hữu để sinh tâm nhàm chán, buông bỏ dục vọng, buông bỏ lòng tham, khiến cho đời sống không còn rơi vào quay cuồng, vất vả, mê lầm, đau khổ, gọi là “tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn... tự mình bị già... tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn”8.

Như vậy, sống biết đủ theo lời Phật tức là biết đủ đối với những gì chịu quy luật sanh diệt, thuộc bản chất khổ đau (những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân cảm xúc, ý nhận thức), biết dừng lại đối với những gì gây nên phiền não khổ đau (tham-sân-si), không khao khát tìm cầu những gì bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu, bị ô nhiễm (các lạc thú thế gian); tập trung thực hành Bát Thánh đạo hay phát huy giới đức, tâm đức, tuệ đức tự nội để hoàn thiện bản thân, thực nghiệm an lạc, dần dần thoát khỏi tham-sân-si, đi ra khỏi khổ đau. Chính vì ý nghĩa lợi lạc to lớn như vậy nên Phật mới khích lệ các học trò: “Vui thay, sống biết đủ”9.

Theo lời Phật dạy thì cơ bản có tám bước tu tập thể hiện nếp sống biết đủ hay thiểu dục tri túc, có khả năng giúp cho con người dần dần đi đến hoàn thiện, thoát khỏi phiền não khổ đau, thực nghiệm hạnh phúc an lạc:

Thứ nhất là biết đủ trong nhận thức, gọi là tu tập Chánh tri kiến. Đó là sự dừng lại hay từ bỏ các nhận thức sai lầm (tà kiến) đưa đến phiền não khổ đau, như cho rằng ta hiện hữu, ta không hiện hữu; ta có tự ngã, ta không có tự ngã...; tập trung nhận thức rõ hay nuôi dưỡng sự hiểu biết đầy đủ về khổ đau (của ngũ uẩn), về nguyên nhân khổ đau, về sự diệt khổ và về con đường tu tập đưa đến sự diệt khổ để đi ra khỏi khổ đau.

Thứ hai là biết đủ trong tư duy, nghĩa là dừng lại các tư tưởng gắn liền với tham dục, sân hận, tà kiến hay không để cho mình rơi vào dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy; tập trung suy tư về biện pháp thoát ly tham dục (ly dục tư duy), suy nghĩ về cách thức nhiếp phục sân hận (vô sân tư duy), nghĩ đến việc dứt trừ tà kiến (bất hại tư duy).Thứ ba là biết đủ trong lời nói, tức là dừng lại hay tránh xa các lời nói bất thiện đưa đến phiền não khổ đau, như nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm; chuyên tâm nói những lời chân thật, nói những lời đưa đến đoàn kết hòa hợp, nói những lời tao nhã đẹp lòng, nói những điều chân thật hữu ích. Thứ tư là biết đủ trong hành động, nghĩa là dừng lại hay từ bỏ những việc làm sai trái xấu ác đưa đến phiền não khổ đau, như sát hại chúng sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục; nỗ lực làm các việc chân chánh hiền thiện đưa đến an lạc, như tôn trọng sự sống và môi trường sống của chúng sanh, tôn trọng sở hữu và quyền sở hữu của người khác, tôn trọng hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc gia đình của người khác.

Vui thay sống biết đủ 2
Nam Mô A Di Đà Phật 

Thứ năm là biết đủ trong sinh sống, nghĩa là dừng lại hay từ bỏ các nghề nghiệp hay phương tiện mưu sinh bất chính, phi pháp, không lương thiện; thực hành nếp sống thiểu dục tri túc, nuôi sống sinh mạng bằng các phương tiện chính đáng, đúng pháp, lương thiện.

Thứ sáu là biết đủ trong nỗ lực, tức là dừng lại hay từ bỏ những việc làm sai trái xấu ác, những lời nói sai trái xấu ác, những ý nghĩ sai trái xấu ác; nỗ lực làm cho sanh khởi và phát triển những việc làm chân chánh hiền thiện, những lời nói chân chánh hiền thiện, những ý nghĩ chân chánh hiền thiện.

Thứ bảy là biết đủ trong nhớ nghĩ, tức là dừng lại hay rời bỏ việc nghĩ nhớ đến các đối tượng khiến cho tham dục, sân hận, tà kiến có điều kiện sanh khởi và tăng trưởng; chú tâm quán sát hay xem xét về tính chất duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã của bản thân mình (danh sắc, ngũ uẩn, sáu nội xứ) và thế giới hỗ trợ cho mình tồn tại (sáu ngoại xứ) gọi là quán thân, thọ, tâm, pháp nhằm loại bỏ thói quen ái luyến, chấp thủ, dứt trừ ngã chấp hay rời bỏ “cái tôi” ảo tưởng.

Thứ tám là biết đủ trong định tâm, nghĩa là dừng lại các vọng niệm hay chặn đứng các tạp niệm; tập trung làm trong sạch nội tâm bằng biện pháp hành Thiền, khiến cho tâm đạt đến tăng thượng, thoát khỏi các trói buộc và ô nhiễm thế gian, thực chứng các trạng thái tịnh lạc sâu lắng đưa đến định tĩnh như hỷ lạc do ly dục sanh, hỷ lạc do định sanh, xả niệm lạc trú, xả niệm thanh tịnh, khiến cho tâm trở nên định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, có khả năng nhận diện đúng đắn và thông suốt về bản chất khổ đau của toàn thể hiện hữu, hướng đến đoạn tận các lậu hoặc, chấm dứt khổ đau sanh tử, gọi là thành tựu Chánh trí và Chánh giải thoát.

Nhìn chung, sống biết đủ hay thiểu dục tri túc được nói đến trong đạo Phật là một lẽ sống sáng suốt, có cân nhắc, có chọn lựa giữa chánh và tà, thiện và ác, thanh thản và trói buộc, hạnh phúc và bất hạnh, an lạc và khổ đau. Đó là thái độ biết đủ đối với những gì mà mình có được trong đời sống hàng ngày, biết đủ trong cái thấy, trong cái nghe, trong cái ngửi, trong cái nếm, trong sự xúc chạm và trong nhận thức, không để cho những cái ấy mê hoặc, trói buộc, làm cho mình rơi vào mê say, quay cuồng, vùng vẫy, khổ đau. Đó là sự quyết tâm dừng lại các ý nghĩ bất thiện, các lời nói bất thiện, các việc làm bất thiện; nỗ lực phát huy những ý nghĩ hiền thiện, những lời nói hiền thiện, những việc làm hiền thiện. Hay đó là sự quyết tâm dừng lại tám tà đạo (tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định), nỗ lực làm cho tăng trưởng tám Thánh đạo (Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định). Nói cách khác, sống biết đủ hay thiểu dục tri túc trong đạo Phật không phải là thái độ bi quan chối bỏ cuộc sống, mà chính là thái độ tỉnh táo sáng suốt trong cuộc sống, biết khước từ những gì khiến bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp giảm thiểu, và biết phát huy những gì khiến thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp giảm thiểu10.

Người con Phật hân hoan chấp trì nếp sống biết đủ, bằng lòng với lối sống thiểu dục tri túc, vì đó là lẽ sống sáng suốt mà các bậc giác ngộ đã chứng nghiệm và vì đó là lẽ sống thiết thực lợi lạc, rời xa phiền não khổ đau, đưa đến giải thoát an lạc. Tôn giả Đại Mục-kiền- liên, sau khi giảng cho các Tỳ-kheo về cách thức làm sạch các cấu uế tự nội, đã dùng một ví dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa lợi lạc của nếp sống mà Đức Thế Tôn đã ca ngợi là:

“Vui thay, sống biết đủ”

Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ rằng: ‘Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh’. Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỳ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỳ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỳ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỳ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học trong thiện pháp11.

Chú thích:

1. Kinh Eraka, Tăng Chi Bộ.

2. Kinh Tướng quân Sìha, Tăng Chi Bộ.

3. Kinh Màgandiya, Trung Bộ.

4. Kinh Tướng quân Sìha, Tăng Chi Bộ.

5. Kinh Điều ngự địa, Trung Bộ.

6. Đại kinh Khổ uẩn, Trung Bộ.

7. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

8. Kinh Thánh cầu, Trung Bộ.

9. Kinh Pháp Cú, kệ số 331.

10. Xem Kinh Nên hành trì, không nên hành trì, Trung Bộ.

11. Kinh Tư lượng, Trung Bộ.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Lợi ích sức khỏe không ngờ khi uống đậu đen lá dứa thường xuyên

Sống an vui 04:50 21/11/2025

Uống đậu đen lá dứa thường xuyên có thể hỗ trợ giảm cân, ổn định đường huyết và thải độc gan…

Cách nhận biết dầu ăn kém chất lượng cực đơn giản

Sống an vui 05:09 20/11/2025

Dầu ăn giả, kém chất lượng trên thị trường có thể gây ra nhiều nguy hại sức khỏe, vậy làm thế nào để phân biệt dầu ăn kém chất lượng và dầu ăn nguyên chất?

Đối diện cái chết không sợ hãi

Sống an vui 09:09 19/11/2025

Chết là sự kiện duy nhất chắc chắn sẽ xảy ra trong đời nhưng lại là việc mà con người ít được chuẩn bị nhất. Con người lập kế hoạch và sửa soạn cho vô số sự việc khác nhau – thi cử, hôn nhân, giao dịch kinh doanh, xây dựng nhà cửa… – mặc dù chẳng bao giờ người ta có thể biết chắc rằng những kế hoạch ấy có trở thành hiện thực đúng như mong muốn của họ hay không. Cái chết thì khác, nó có thể đến vào bất cứ giờ phút nào, sớm hay muộn.

Tập thở, tập an

Sống an vui 08:10 19/11/2025

Có những ngày ta bước ra khỏi nhà với đôi vai nặng trĩu, thấy phố xá đông mà lòng mình lại chật hẹp.

Xem thêm