Giữa chân tâm và bản tính tuy hai danh từ có khác nhưng ý nghĩa thì không khác. Nói chân tâm là đối với vọng tâm mà nói. Chân là chân thật không biến đổi đó là nghĩa thường hằng bất sinh bất diệt. Tâm là biết, cái biết này nó lặng lẽ trong sáng không bị ngoại cảnh chi phối. Nếu trong lúc ngồi thiền, khi tâm chúng ta chưa dấy động khởi nghĩ bất cứ thứ gì, mà lúc đó chúng ta vẫn có cái biết sáng suốt hiện tiền, chính đó mới là cái biết chân thật. Trong Kinh thường gọi cái “biết” này là chân tâm. Còn khi chúng ta khởi niệm nghĩ đến chuyện lành dữ, phải trái, hơn thua v.v… thì cái biết đó trong kinh gọi là vọng tâm. Nghĩa là cái biết duyên theo trần cảnh đối đãi mà có. Kinh Viên Giác nói: “Cái tâm này nó do duyên theo bóng dáng sáu trần, mà có ra cái tướng tự tâm”. Nên nói nó là vọng tưởng. Chính nó do duyên sinh, nên bản chất của nó là không thật. Vì không thật, cho nên nó khởi sinh, khởi diệt, chợt có, chợt không, sinh diệt biến đổi liên miên không dừng.
Còn nói bản tính là vì cái tính “Biết” nó sẵn có từ hồi nào đến giờ. Trong kinh gọi là Phật tính hay chân như. Bản tính là tên khác của Phật tri kiến hay Viên giác v.v… Thí như trong quặng nhơ sẵn có chất vàng ròng trong đó. Ðứng về mặt bản thể của sự vật, thì nói là bản tính. Thí như nước và sóng, nếu đứng về mặt bản thể, thì người ta gọi là nước. Nhưng nếu đứng về mặt hiện tượng thì người ta gọi là sóng. Như vậy, sóng và nước không thể ly khai ra mà có. Chính trong lúc sóng nổi lên, thì nó mang sẵn chất nước tiềm tàng ở trong sóng. Nếu không có nước thì làm gì có sóng? Nhưng nói sóng là nước thì không đúng.
Cũng thế, khi phiền não (dụ cho sóng) dấy khởi thì nó che phủ mờ tính giác sẵn có. Ngay khi phiền não dấy lên, thì mình không thể nói phiền não là chân tâm hay bản tính được. Nhưng bản tính cũng không rời phiền não mà có. Như nước trong không rời lìa nước đục mà có. Muốn có nước trong cần phải lóng. Lóng có nghĩa là tu, tu là chuyển hóa những thứ phiền não nhiễm ô, để cho tâm ta được thanh tịnh sáng suốt. Hai thực thể này không thể ly khai mà có. Ðây là lý “Bất Nhị” hay pháp môn “Không Hai” của Kinh Duy Ma Cật đã nói. Và đây cũng chính là yếu lý “Tương Tức Tương Nhập, hay Lý Sự vô ngại” của hệ tư tưởng giáo lý trong Kinh Hoa Nghiêm. Vì thế, nên nói một là sai, mà nói hai thì không đúng.
Thí dụ như lúc mình nổi giận, thì cái tính không giận nó tiềm tàng sẵn có trong cái phiền não giận. Giận là hiện tượng dấy khởi từ bản thể. Bản thể vốn vắng lặng. Vì nó sẵn có nên khi hết giận thì cái tính không giận (trước khi nổi giận) nó trở lại với cái tính không giận. Sở dĩ giận là vì tại mình không khéo gìn giữ ở nơi cái tính không giận, nên để cho tập khí giận nổi lên.
Nói giận là để tiêu biểu cho tất cả những thứ phiền não khác. Giận là vì nó gặp nghịch cảnh cho nên khởi giận. Cũng như nước vốn không phải sóng, nhưng vì gặp gió thổi nên nước mới nổi sóng. Khi sóng dừng lại thì tính nước sẽ hiện bày trở lại như cũ, nghĩa là như cái lúc mà nước chưa khởi thành sóng. Cho nên trong kinh nói: “Phiền não tức Bồ đề, sinh tử tức Niết bàn” là ý đó. Sóng thì khi có, khi không, nhưng nước thì lúc nào cũng vẫn có. Nước là dụ cho bản tính hay chân tâm, còn sóng là dụ cho vô minh hay phiền não. Muốn hết phiền não thì phải dừng vô minh. Muốn không có sóng thì gió phải dừng lại.
Ðó là ý nghĩa của sự tu hành là diệt trừ phiền não. Tham thiền, niệm Phật, tụng kinh, hay trì chú v.v… vô lượng pháp môn Phật dạy cũng nhắm thẳng vào một mục đích duy nhất đó. Nói rõ hơn là Phật muốn cho chúng sinh nhận và hằng sống lại với cái thể tính chân thật sáng suốt hằng hữu bất sinh bất diệt sẵn có của chính mình. Sở dĩ nói bất sinh bất diệt là vì cái thực thể này vốn nó không có hình tướng, giống như hư không. Hư không thì không có sinh có diệt. Tuy nhiên, hư không thì vô tri, nhưng tính giác thì hằng tri hằng giác. Khác nhau là ở chỗ đó. Thế nên, Kinh Bát Nhã nói: “Thị chư pháp Không Tướng, bất sinh, bất diệt” v.v… Tướng của các pháp thì giả có, nhưng tính của các pháp thì không. Nhưng cái “Tính Không” này, xin chớ vội lầm hiểu là không trơn như lông rùa sừng thỏ. Mà cái “Không” này là cái “Không Chân Thật” của vạn pháp.
Ðứng về mặt tu hành mà nói, thì cái chính nhân Phật tính tuy sẵn có, nhưng vì bị vô minh phiền não che lấp, nên có đó mà cũng như không. Ðây là nghĩa Như Lai tại triền (tính giác còn bị các thứ phiền não trói buộc). Khi nào hành giả nỗ lực gia công tu hành chuyển hóa hết vô minh phiền não, thì cái thể tính thanh tịnh sáng suốt kia mới hiện bày. Ðây là nghĩa Như Lai xuất triền (tính giác ra khỏi phiền não nhiễm ô ràng buộc). Cũng thí như mây tan, thì trăng hiện, chỉ cần vẹt tan mây mù vô minh, thì ánh trăng Chân Như sẽ hiện bày.
Thích Phước Thái
Chú thích: Bài đã được đăng trên một số trang cá nhân trên mạng Internet, đăng trên phatgiao.org.vn với sự cho phép của tác giả.