Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Chủ nhật, 04/09/2022, 14:40 PM

Chuyện truyền y bát của Lục Tổ Huệ Năng

Lục Tổ Huệ Năng là tấm gương sáng cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia về ý chí của bậc tu hành, vượt qua mọi chướng ngại, khó khăn để quyết hướng tới đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Lục Tổ Huệ Năng là ai?

Lục Tổ Huệ Năng là thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Ngài chính là người kế tiếp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Hoa.

Cuộc đời Lục Tổ Huệ Năng và câu chuyện truyền y bát

Lục Tổ Huệ Năng sinh ngày 08 tháng 02 năm Mậu Tuất (638) trong gia đình nghèo tại Tân Châu, xứ Lãnh Nam, Trung Quốc. Cha mang bệnh rồi mất sớm khi Ngài mới lên ba. Tuy không biết chữ nhưng với tâm hiếu thảo và bản tính thông minh, hàng ngày Ngài vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.

Một hôm, khi mang củi đến nhà cho khách, Ngài nghe được bài kinh từ trong vang ra. Sau khi hỏi và được chủ nhà cho biết đó là kinh Kim Cang được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn khuyên trì tụng. Nghe xong, Ngài xin mẹ cho đi tìm Ngũ Tổ học đạo và được mẹ đồng ý.

Trải qua hơn một tháng, Lục Tổ mới đến huyện Huỳnh Mai, trước mặt Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Ngài bày tỏ mong muốn duy nhất là cầu làm Phật. Tuy nhiên, Lục Tổ Huệ Năng lại được Ngũ Tổ phân công xuống bếp làm công quả; ở đây, Lục Tổ chuyên tâm bổ củi, giã gạo. Cối gạo to, chày đạp lớn; người lại gầy ốm, không đủ sức nặng cất được chày đạp, Ngài phải cột thêm đá vào lưng để đủ sức giã gạo. Dù vậy nhưng Ngài vẫn miệt mài, chăm chỉ làm việc, chưa bao giờ trễ nải, lười biếng.

Trong thời gian dài đeo đá trên lưng giã gạo, sợi dây cứa vào da thịt của Ngài khiến da bị trầy xước, bong tróc và chảy máu, thậm chí bị thối thịt và xuất hiện những con giòi. Tuy nhiên, khi nhìn thấy những con giòi rơi xuống đất, Lục Tổ Huệ Năng bình thản nhặt lên và đặt vào vị trí cũ trên da thịt, tiếp tục chuyên tâm vào công việc được giao.

Bức tranh Lục Tổ Huệ Năng đeo đá trên lưng giã gạo

Bức tranh Lục Tổ Huệ Năng đeo đá trên lưng giã gạo

Một hôm, Ngũ Tổ xuống nhà bếp, đi qua chỗ Ngài đang mang đá giã gạo, Ngũ Tổ bảo: “Ngươi vì đạo quên mình như thế ư? Ta biết ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi nên ta không nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng?”.

Ngài thưa: “Con đã biết thế”.

Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết thời cơ truyền Pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn chúng đệ tử trình bài kệ kinh nghiệm tu tập. Trong số chúng bảy trăm người chỉ có Thượng tọa Thần Tú viết kệ:

“Thân là cây Bồ Đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn luôn siêng lau chùi

hớ để bụi trần bám”.

Ngài Thần Tú viết xong bài kệ, ai cũng tấm tắc khen hay, cho rằng Ngài xứng đáng được truyền y bát. Ngài Huệ Năng nghe bài kệ của Ngài Thần Tú cũng nhờ người viết giúp một bài kệ:

“Bồ Đề vốn không cây

Gương sáng cũng không đài

Xưa nay không một vật

Nào chỗ bám trần ai?”

Khi ấy, Tổ Hoằng Nhẫn đi qua, đọc được bài kệ của Ngài Huệ Năng, nhưng không muốn động chúng nên sai người xóa bài kệ đi. Mấy hôm sau, trong đêm Ngũ Tổ xuống nhà bếp, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo hỏi: “Gạo trắng chưa?”. Ngài đáp: “Gạo đã trắng mà chưa có sàng”. Ngũ Tổ bèn cầm gậy gõ lên tay cối ba lần, rồi trở về. Canh ba đêm ấy Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền Pháp và trao y bát cho Huệ Năng.

Từ đó Lục Tổ Huệ Năng trở thành vị Tổ thứ sáu Thiền Tông Trung Hoa. Sau đó Ngài đưa Lục Tổ Huệ Năng qua sông trở về phương Nam. Trên thuyền Ngũ Tổ bảo: “Để ta độ con”. Đáp lại Thầy, Lục Tổ thưa: “Khi mê Thầy độ, khi ngộ con tự độ”. Khi đến bờ, Ngũ Tổ cũng căn dặn: “Con không chỉ độ chính mình mà còn phải độ chúng sinh”.

Ngài Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đưa Lục Tổ Huệ Năng qua sông.

Ngài Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đưa Lục Tổ Huệ Năng qua sông.

Ngũ Tổ dạy về việc độ sanh cho Lục Tổ Huệ Năng

Sau khi được Ngũ Tổ truyền y bát, Ngài Huệ Năng đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ những người ủng hộ Ngài Thần Tú. Họ truy đuổi để giành lại y bát vì cho rằng Ngài không xứng đáng được trao y bát, tiếp nối dòng thiền mà Tổ truyền trao.

Trên đường du hóa Ngài trải qua vô số khó khăn, cản trở. Điều đặc biệt của Lục Tổ Huệ Năng chính là ý chí tu hành tuyệt vời. Từ lúc còn nhỏ cho đến thời gian ở Huỳnh Mai; sau là những năm tháng sống ẩn dật, có lúc gặp khó khăn phải xin gia nhập vào đoàn thợ săn. Không những thế, đến bữa ăn, Ngài hái rau luộc nhờ trong nồi thịt, rồi chỉ ăn rau, không ăn thịt. Tu hành mặc dù không có chùa, không trong hình tướng của người xuất gia nhưng tâm Ngài vẫn luôn kiên cố, không một mảy may lay động.

Noi gương Lục Tổ Huệ Năng - Chư Tăng Ni chùa Ba Vàng nỗ lực tu tập, hoằng dương chính PhápÝ chí tu hành của Lục Tổ Huệ Năng như tấm gương để chư Tăng Ni, Phật tử noi gương mà tinh tấn tu hành tầm cầu giác ngộ giải thoát. Khoác trên mình tấm huỳnh y giải thoát, dưới sự giáo dưỡng trên Đại đức trụ trìThích Trúc Thái Minh, chư Tăng chùa Ba Vàng luôn ghi nhớ chí nguyện xuất gia cao cả trên cầu thành Phật dưới độ chúng sinh. Các Thầy ngày đêm tu tập trong rừng, thực hành ăn ngày một bữa (trừ khi lao động nặng, vất vả thì uống thêm bột). Đây là phương pháp tu tập của chúng Tăng có từ thời Đức Phật tại thế; chư Tăng ngày ăn một bữa, một bát ba y, thường ở trong rừng, ngủ dưới gốc cây bởi rừng là môi trường rất tốt cho hành giả tu tập.

Chư Tăng miên mật thực hành Pháp Phật; chiến đấu với nội tâm và ngoại cảnh khắc nghiệt bất kể ngày hay đêm

Chư Tăng miên mật thực hành Pháp Phật; chiến đấu với nội tâm và ngoại cảnh khắc nghiệt bất kể ngày hay đêm

Bất kể ngày hay đêm, nắng nóng hay mưa giông, chư Tăng chùa Ba Vàng vẫn nghiêm trì thực hành pháp hạnh đầu đà, tiếp nối mạng mạch Phật Pháp của Đức Phật và các vị chư Tổ để lại. Với tâm trường viễn, giác ngộ Pháp Phật, chư Tăng tu tập trong rừng không chỉ “chiến đấu” với những phiền não, cấu uế trong tâm, mà còn phải “chiến đấu” với ngoại cảnh mưa gió, bão bùng, rắn rết,... để quyết chí cầu Vô Thượng Bồ Đề, làm lợi ích cho chúng sinh.

Bên cạnh đó, các Phật tử tu học tại chùa cũng như Phật tử tại gia luôn cố gắng thực hành giới theo sự chỉ dạy trên Đại đức trụ trì Thích Trúc Thái Minh và đại Tăng. Giữ gìn năm giới, thực tập ba tâm: Cung kính - Vâng lời - Biết ơn; biết bố thí, cúng dường, hộ trì Tam Bảo,... Đây cũng chính là việc làm thiết thực để hoằng truyền Phật Pháp, đền đáp tứ trọng ân, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh và thế giới an lành.

Chư Tăng quyết chí tu tập để chiến thắng cám dỗ, dục vọng; đạt được an vui, giải thoát

Chư Tăng quyết chí tu tập để chiến thắng cám dỗ, dục vọng; đạt được an vui, giải thoát

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Cuộc đời Tôn giả Mahã Kassapa qua kinh tạng Nikãya

Nhân vật Phật giáo 09:00 11/10/2024

Từ khi chào đời cho đến lúc nhập diệt, Ngài luôn sống trong thanh tịnh, hoàn thành chí nguyện xuất gia cũng như lối sống phạm hạnh đầu đà của mình.

Tôn giả Ananda và 8 đặc ân khi làm thị giả của đức Phật

Nhân vật Phật giáo 07:35 31/05/2024

Sau khi nghe Đại đức Ānanda giải thích ý nghĩa của mỗi đặc ân, Đức Phật chấp thuận đủ tám đặc ân của Đại đức Ānanda. Bắt đầu từ thời gian ấy, Đại đức Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Đức Thế Tôn, cho đến lúc Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn.

Thời niên thiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên

Nhân vật Phật giáo 19:20 26/03/2024

Tôn giả Mục-kiền-liên, bậc Thánh đứng hàng thứ hai trong mười vị Đại đệ tử của đức Phật. Ngài được đức Thế Tôn khen ngợi là vị có thần thông đệ nhất và hiếu tâm lớn nhất trong hàng đệ tử xuất gia của Phật.

Thiền sư Khương Tăng Hội – Người khai sáng Thiền tông Việt Nam

Nhân vật Phật giáo 09:03 20/03/2024

Người khai sáng Thiền tông Việt Nam là Thiền sư Khương Tăng Hội – sơ Tổ của dòng phái Thiền Việt Nam, người đã có công góp phần xây dựng cơ sở nền móng hoạt động để Trung tâm Phật giáo thứ II ở vùng Đông Bắc Bộ phát triển từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XI.

Xem thêm