Thứ sáu, 26/06/2020, 16:00 PM

Nhân duyên của Lục Tổ Huệ Năng và kinh Kim Cang

Nhân duyên chứng ngộ của Lục Tổ Huệ Năng với câu pháp ngữ: “Không trụ vào chỗ nào mà sinh tâm mình” (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Vì thế, kinh Kim Cang được xem như như kim chỉ nam trong nhà thiền để giúp hành giả trực chỉ nhân tâm, thấy tính Phật như Lục Tổ Huệ Năng.

 Lục Tổ Huệ Năng và câu chuyện truyền y bát

Lục Tổ họ Lư, tên Huệ Năng, sinh trưởng trong gia đình nghèo túng, mồ côi cha từ khi ba tuổi. Hàng ngày Huệ Năng phải vào rừng đốn củi đem bán để nuôi mẹ.

Ðến năm 22 tuổi, một hôm nghe có người tụng kinh Kim Cang mà tỉnh ngộ và nhờ có duyên tốt, được người giúp đỡ, nên đến học đạo với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.

Khi Huệ Năng đến yết kiến Ngũ Tổ thì Ngũ Tổ hỏi: “Ðến đây cầu việc gì?”

Huệ Năng đáp: “Ðến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác.”

Tổ tiếp: “Ngươi là người xứ Lãnh Nam, lại là dân man rợ, thế nào thành Phật được?”

Huệ Năng đáp: “Con người tuy có phân chia Nam Bắc, chớ Phật tính vốn không có Nam Bắc. Cái thân man rợ này đối với hòa thượng tuy chẳng giống nhau, nhưng tính Phật đâu có khác!”

Nhân duyên của Lục Tổ Huệ Năng và kinh Kim Cang 1

Nhục thân Lục Tổ Huệ Năng.

Lý do nhục thân bất hoại 1200 năm của Lục tổ Huệ Năng thủng một lỗ

Như vậy, dù chỉ mới bắt đầu xin theo học đạo mà Huệ Năng đã tỏ ra có chí khí hơn người. Ngài đã thấy rõ mục đích thiền định là thành Phật và thấy rõ Phật tính của mọi người hay mọi loài như nhau. Ngũ Tổ thầm nhận Huệ Năng là người có pháp khí khác thường rồi.

Sau đó Huệ Năng được giao cho công việc giã gạo ở sau bếp, chứ chưa được lên nhà trên theo học như các tăng khác. Tuy vậy, Huệ Năng vẫn nhẫn nại giã gạo được hơn tám tháng. Tới lúc Ngũ Tổ thấy thời cơ truyền pháp đã đến và ngài yêu cầu toàn chúng trình kệ để chọn người kế thừa. Ngũ Tổ khai thị như sau:

“Sinh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sinh tử. Nếu mê tự tính thì phước làm sao có thể cứu được? Các ngươi mỗi người hãy tự xem trí Bát Nhã của tự tính và làm một bài kệ trình cho ta xem, nếu ai ngộ được đại ý thì ta sẽ trao truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu.”

Chư tăng trong chùa có hơn bảy trăm người. Ai cũng tin rằng chỉ có giáo thọ sư của họ là Thượng tọa Thần Tú mới đủ khả năng nhận truyền pháp này nên không ai dám nghĩ đến việc trình kệ. Thần Tú trình bài kệ như sau:

“Thân là cây bồ đề,

Tâm như đài gương sáng,

Luôn luôn phải lau chùi,

Chớ để dính bụi trần.”

Ngũ Tổ kêu Thần Tú vào và dạy rằng: “Qua bài kệ này, chứng tỏ con chưa thấy bản tính, còn đứng ngoài thềm cửa, chưa bước vào trong chùa. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm đạo Vô thượng Bồ Ðề thì rõ ràng chưa thể được.”

Nhân duyên của Lục Tổ Huệ Năng và kinh Kim Cang 2

Kinh Kim Cang.

Gươm báu trao tay hay câu chuyện về sức mạnh của Kinh Kim Cang

Sau đó, Huệ Năng vì không biết chữ nên nhờ người đọc bài kệ của thầy giáo thọ Thần Tú cho nghe. Nghe xong, ngài cũng nhờ người viết một bài kệ để đối lại với bài kệ ấy:

“Bồ đề vốn chẳng cây,

Gương sáng cũng chẳng đài,

Xưa nay không một vật,

Nơi nào dính bụi trần.”

Ngũ Tổ rất vui khi đọc qua bài kệ của Huệ Năng và biết rằng Huệ Năng là người đã ngộ Thiền, nên tổ liền truyền trao y bát và tấn phong Huệ Năng lên ngôi vị Lục Tổ (tổ thứ sáu). Khi truyền pháp cho Huệ Năng thì Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, đến pháp ngữ: “Không trụ vào chỗ nào mà sinh tâm mình” (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Ngài Huệ Năng giựt mình và nhận ra tính Kim Cang vốn đầy đủ diệu dụng của mình, bèn cảm hứng và thốt lên rằng:

“Ðâu ngờ tự tính vốn tự thanh tịnh,

Ðâu ngờ tự tính vốn chẳng sinh diệt,

Ðâu ngờ tự tính vốn tự đầy đủ.

Ðâu ngờ tự tính vốn chẳng lay động.

Ðâu ngờ tự tính hay sinh vạn pháp.”

Nghĩa là tổ Huệ Năng không ngờ tự tính của chúng ta xưa nay vốn có đầy đủ các đức tính diệu dụng. Ngũ Tổ biết ngài Huệ Năng là người vốn có gốc học Phật từ nhiều kiếp. Tuy không biết chữ nào nhưng ngài đã nắm được then chốt của tính Kim Cang chân không Bát Nhã, vì thế Ngũ tổ mới truyền trao y bát để ngài Huệ Năng làm tổ thứ sáu và dặn dò rằng:

“Chẳng nhận được bản tâm, học đạo vô ích. Nếu nhận được bản tâm, thấy được bản tính, tức gọi là Trượng phu, thầy của cõi trời, cõi người, tức là Phật.”

Nhân duyên của Lục Tổ Huệ Năng và kinh Kim Cang 3

“Sinh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sinh tử. Nếu mê tự tính thì phước làm sao có thể cứu được? Các ngươi mỗi người hãy tự xem trí Bát Nhã của tự tính và làm một bài kệ trình cho ta xem, nếu ai ngộ được đại ý thì ta sẽ trao truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu.”

Ảnh hưởng của Kinh Kim Cang đối với Thiền tông

Ngũ tổ biết rằng trong tăng chúng có nhiều người không phục và không đồng ý Huệ năng làm Lục tổ. Bởi vì trong chúng lúc bấy giờ có ngài Thần Tú là giỏi chữ nghĩa và là thầy giáo thọ dạy học, nhưng lại chưa nắm và thấy được tính Kim Cang. Trong khi Huệ Năng ngộ đạo nhưng chỉ là người giã gạo dưới bếp tám tháng và không biết một chữ nghĩa nào cả. Bây giờ phút chốc được Ngũ Tổ tấn phong cho làm tổ thứ sáu, bắt cả chúng đảnh lễ tôn sùng như thầy giáo thọ của họ thì không ai chấp nhận cả.

Riêng Ngũ Tổ biết ngài Huệ Năng dù là không biết chữ, nhưng là người thấy tính, có chỗ chứng đắc thì mới thực là người xứng đáng, nên tổ giao y bát cho ngài Huệ Năng và tổ dặn phải đi trốn, chứ nếu mà ở đây thì chúng sẽ phản đối. Thế cho nên, ngài Huệ Năng phải bỏ trốn trong rừng. Khi nghe tin Huệ Năng được truyền thọ, có mấy trăm người đuổi theo để lấy lại y bát vì cho rằng Huệ Năng không xứng đáng. Ðiều đó cũng dễ hiểu vì ngài chỉ là anh nông phu đốn củi, vô chùa thì chỉ biết giã gạo, không được học hỏi gì về các lớp Phật pháp, nay lại được trao cho danh vị Lục Tổ nên chúng tăng theo chỗ hiểu bình thường rất khó chấp nhận.

Nhân duyên của Lục Tổ Huệ Năng và kinh Kim Cang 4

Kinh Kim Cang được xem như như kim chỉ nam trong nhà thiền để giúp hành giả trực chỉ nhân tâm, thấy tính Phật như Lục Tổ Huệ Năng.

Kinh Kim Cang: Xuất xứ và ý nghĩa

Lục Tổ phải ẩn náu nơi rừng núi khoảng 15 năm. Một hôm ngài đến cổng chùa Pháp tính tại Quảng Châu và gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Lúc ấy có một luồng gió thổi động lá phướng và có hai chú sadi nhỏ đang cãi nhau về chuyện phướng động. Một chú hỏi là: “Phướng động hay là gió động?” Chú kia trả lời: “Do gió động”. Chú sadi này cải lại: “Do phướng động bởi lẽ nếu không có phướng thì gió động cái gì?” Hai chú đấu khẩu với nhau, khó phân thắng bại. Tổ Huệ Năng đứng đó, mới trả lời rằng: “Phướng chẳng động mà gió cũng chẳng động chỉ do tâm của hai chú động thôi”. Hòa thượng Trụ Trì chùa Pháp tính vừa bước ra, nghe câu trả lời của vị sư nhà quê này mới mời ngài vào chùa và thỉnh ngài ở tại chùa Pháp tính để giảng kinh cho tứ chúng nghe. Dù ngài Huệ Năng không biết chữ nào, nhưng khi ngài giảng kinh thì rất lưu loát, sáng suốt và xác thực đi thẳng vào tâm tính. Một lần nữa, Hòa thượng trụ trì đảnh lễ vị sư nhà quê này và thốt lên rằng ngài Huệ Năng giảng kinh như vàng ròng, trong khi Hòa thượng trụ trì giảng kinh chỉ như là cát sỏi. Hòa thượng cũng thưa rằng nghe nói y bát của Lục tổ đã lạc đi và đang ẩn ở chỗ nào đó gần đây, chắc có lẽ chính là vị sư này và cuối cùng Hòa thượng trụ trì mới khám phá và nhận ra đây là Lục Tổ Huệ Năng.

Đó là nhân duyên chứng ngộ của Lục Tổ Huệ Năng với câu pháp ngữ: “Không trụ vào chỗ nào mà sinh tâm mình” (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Vì thế, kinh Kim Cang được xem như như kim chỉ nam trong nhà thiền để giúp hành giả trực chỉ nhân tâm, thấy tính Phật như Lục Tổ Huệ Năng.

>Xem thêm video: Đức Phật hữu tình hay vô tình:

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Tổ Như Hiển - Chí Thiền

Tăng sĩ 10:48 18/03/2025

Tổ sư Như Hiển - Chí Thiền, thế danh Nguyễn Văn Hiển, sinh năm 1861 tại xã Diêm Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học và kính tin Phật pháp, từ nhỏ, Ngài đã được hun đúc tinh thần đạo đức và lòng yêu nước sâu sắc.

Đạo nghiệp của Trưởng lão Hòa thượng Thích Đạt Pháp

Tăng sĩ 16:37 11/03/2025

Trưởng lão Hòa thượng Thích Đạt Pháp (1923-2014), được lấy tôn hiệu Đại giới đàn do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Long An vừa tổ chức đầu tháng 3/2025. Cổng thông tin Phật giáo - Phatgiao.org.vn đăng lại tiểu sử của Ngài.

Người khổ hạnh nhất

Tăng sĩ 10:30 10/03/2025

Endo Mitsunaga - vị Tăng sĩ Nhật Bản hoàn thành lộ trình tu khổ hạnh khắc nghiệt nhất thế giới.

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch

Tăng sĩ 16:10 24/02/2025

Hòa thượng Thích Tâm Tịch, pháp hiệu Như Sơn, thế danh là Nguyễn Đình Khuê, sinh ngày 17 tháng 11 năm Ất Mão 1915, tại phố Hội Bình, tỉnh Yên Bái (nay là phường Hồng Hà, TP Yên Bái - tỉnh Yên Bái). Ngài nguyên quán tại làng Đình Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội; sinh trưởng trong một gia đình làm nghề thủ công mỹ nghệ. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Đình Văn; thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cúc. Ngài là con út trong gia đình có 6 anh chị em. Năm 4 tuổi thân phụ qua đời và sau đó 10 năm thân mẫu cũng tạ thế.

Xem thêm

Phật Giáo
Phật Giáo

Từ điển Phật giáo

Phật Giáo
Phật Giáo
Phật Giáo