Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 09/07/2015, 05:03 AM

Đứng trước thế giới

Đứng trước thế giới là muốn nói điều gì? Con người thời hiện đại đang đứng trước thế giới bởi vì có khả năng tiếp cận với toàn thế giới qua internet, qua những mạng xã hội như Youtube, Facebook, WordPress v.v…có thể phát biểu ý nghĩ và tư tưởng của mình với thế giới, nghĩa là với toàn thể nhân loại.

Mặc dù xưa nay tâm trí cá nhân vẫn có thể ảnh hưởng tới muôn loài chúng sinh một cách vô thức không thông qua ngôn ngữ, đó là theo nguyên lý toàn ảnh, nhưng nay với phương tiện truyền thông hiện đại, tâm niệm con người có thể tác động trực tiếp tới ý thức của cả nhân loại một cách rõ ràng. Có nhiều điều khác xa ngày xưa, nên tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và hành động của con người về mặt ý thức cũng có khác. Vậy sự khác nhau là như thế nào ?

Thứ nhất là thông tin đang phát triển vô cùng mạnh mẽ ảnh hưởng lớn tới con người

Ngày xưa ở đây được hiểu là trước thời đại thông tin, trước khi con người có báo chí, phát thanh, truyền hình và thông tin kỹ thuật số. Ngày xưa thông tin chỉ gói gọn trong phạm vi xóm ấp, lũy tre làng. Thông tin chỉ được lan truyền bằng miệng hoặc bằng thư tín, nghĩa là rất chậm và ít ỏi. Ngày xưa quả địa cầu rộng mênh mông, người ta không biết việc gì xảy ra ở địa phương khác, ở vùng miền khác trong nước, càng không biết việc gì xảy ra ở các nước khác. Do đó mỗi địa phương có cuộc sống riêng của mình, vui buồn với những tập quán, những lễ hội, những sản vật của địa phương mình, không có so sánh với các địa phương khác, càng không so sánh với những vùng miền xa xôi khác trên thế giới. Bởi vì không có thông tin, không biết những nơi ấy ra sao thì làm sao so sánh được. Con người bằng lòng với những thứ mình có, không có chuyện đua đòi bắt chước. Con người có vẻ như an phận với cuộc sống đương thời, không có nhiều lo nghĩ, chỉ mong sao có đủ cơm ăn, áo mặc, có chỗ che mưa che nắng. Người có khả năng trí tuệ một chút thì lo học hành, dùi mài kinh sử văn chương để đi thi, thi đỗ thì thường ra làm quan, bản thân và gia đình được no ấm, vinh hiển. Người bình thường thì lo làm ruộng, làm vườn, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, sản xuất tiểu thủ công. Xã hội chỉ có năm nghề chính là : sĩ, nông, công, thương, binh. Con người thời thái bình sống có vẻ an nhàn.

Tuy nhiên cũng vì thông tin khó khăn, giao thông bất tiện. Người dân muốn đi đâu xa chỉ có thể đi bộ hoặc đi ngựa, tốt lắm là đi xe ngựa ở những nơi có chút ít đường bộ, hoặc đi ghe thuyền ở những nơi có sông ngòi hoặc kinh đào. Những gia đình rủi ro cưới vợ, gả chồng ở những nơi xa xôi, thì sẽ phải chịu cảnh sinh ly, gả con gái đi rồi có thể sẽ chẳng còn cơ hội gặp lại.

Vào cuối đời Tây Hán, năm 33 Trước CN vua Hung Nô là Hô Hàn Tà 呼韓邪 sang kinh đô Trường An của Nhà Tây Hán để cưới công chúa, nhưng không có công chúa nào chịu lấy ông chồng già ở xứ du mục, vua Hán Nguyên Đế đành phải nhận một cung nữ là nàng Vương Chiêu Quân làm con nuôi để gả cho vua Hung Nô. Nàng Chiêu Quân đi lấy chồng xa như thế là một đi không trở về, tuy nàng được phong là Ninh Hồ Yên Chi 寧胡閼氏 (hoàng hậu của hai triều Hán –niên hiệu Cánh Ninh 竟寧 đời Hán Nguyên Đế- và Hồ) phải chấp nhận những phong tục lạ đời ngược với phong tục trọng trinh tiết của phụ nữ người Hán. Khi Hô Hàn Tà qua đời, nàng phải lấy vị Thiền Vu kế ngôi là Phúc Chu Luy Nhược Đề 復株累若鞮 là con trai cả của chồng với người vợ lớn. Chiêu Quân phải sống suốt đời trên đất Hồ, không một lần trở về quê, chết táng tại Hô Hòa Hạo Đặc 呼和浩特 (Hohhot) nay thuộc Nội Mông.

Nhà thơ đời Đường Vi Ứng Vật có con gái lớn lấy chồng tại nước Đại Lý, xa nhà khoảng 2000 cây số, ngày con gái lấy chồng, đau buồn khóc như mưa, làm bài thơ Tống Dương Thị Nữ 送楊氏女 (Tiễn con gái lấy chồng họ Dương) trong đó có những câu :

女子今有行,Nữ tử kim hữu hành,          Thân gái dặm trường nhỉ
大江泝輕舟。Đại giang tố khinh chu.      Sông cả, thuyền nhỏ ngược
爾輩苦無恃,Nhĩ bối khổ vô thị,              Nương tựa nhờ ai được
撫念益慈柔。Phủ niệm ích từ nhu.           Mềm lòng, cha bên con
幼為長所育,Ấu vi trường sở dục,           Nuôi dưỡng từ thuở nhỏ
兩別泣不休。Lưỡng biệt khấp bất hưu.    Chia tay, khóc chẳng ngừng
對此結中腸,Đối thử kết trung trường,    Đối cảnh, lòng quặn thắt

Ai có hứng thú thì có thể xem toàn cả bài thơ:

Tiễn Con Gái Lấy Chồng Họ Dương – Vi Ứng Vật – Việt dịch Video
Như ngày nay thì 2000 cây số chẳng bao xa, kể cả bên kia Trái Đất, 20.000 cây số cũng chẳng thành vấn đề, nếu muốn, ngày nào cũng có thể liên lạc qua mạng internet không tốn tiền, nên chẳng cần phải buồn khóc.

Thông tin tác động rất lớn đến con người ngày nay. Thông tin tràn ngập khắp nơi. Hiện tại có rất nhiều đài truyền hình, bất cứ giờ nào trong ngày chúng ta cũng có thể xem truyền hình, từ văn nghệ, bi hài kịch, hội thoại, chiếu phim, tin trong nước, tin thế giới. Bất cứ việc gì tương đối lớn xảy ra trên thế giới chúng ta đều có thể biết qua các đài truyền hình và đài phát thanh. Nếu muốn biết tường tận hơn về một thông tin thì có thể xem báo trên mạng internet, hoặc xem video trên mạng, phổ biến nhất là mạng video Youtube.

Ngoài ra trên các mạng xã hội, phổ biến nhất là Facebook, cũng có rất nhiều thông tin bằng văn bản hoặc hình ảnh hay video của cá nhân. Chúng ta có thể xem thông tin bằng tiếng mẹ đẻ, kể cả một số thông tin bằng ngoại ngữ cũng có thể được máy dịch ra ngôn ngữ của mình nếu muốn. Tuy nhiên khả năng phiên dịch của máy hiện nay còn bị hạn chế, những lời nói thông thường thì máy có thể dịch được khá chuẩn, tuy nhiên đối với văn chương, nhất là cổ văn, thì máy không thể dịch chính xác được, dịch còn rất bậy bạ không có nghĩa lý. Nếu biết thêm hai ngoại ngữ phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là tiếng Anh và tiếng Hoa thì có thể nắm được phần lớn thông tin của thế giới.

Nắm được nhiều thông tin thì sẽ bị ảnh hưởng thế nào ? Thì sẽ thấy thế giới không có một ngày bình yên. Nếu ngày xưa, chỉ khi nào chiến tranh loạn lạc tràn đến chỗ mình ở, con người mới bị tác động. Còn ngày nay, những sự kiện xảy ra ở những nơi rất xa xôi, thông tin của chúng, kể cả thông tin bằng hình ảnh sống động, tràn ngập tai mắt của mình mỗi ngày, nào là bão tố, động đất, sóng thần, núi lửa, máy bay rơi, tàu chìm, chiến tranh tàn phá hoặc bạo lực, bất đồng tranh cãi giữa các nước sẵn sàng ập đến chúng ta mỗi khi mở tivi, máy vi tính hay mở điện thoại xem thông tin. Cho nên con người có khuynh hướng bi quan, dễ trầm cảm, dễ bị stress hơn ngày xưa, mặc dù hoàn cảnh vật chất, tiện nghi ngày nay rõ ràng hơn hẳn ngày xưa. Con người ngày nay trở nên quá ham mê vật chất, người ta hay so sánh mình với người chung quanh, so sánh cả trên qui mô cá nhân, xã hội và quốc gia. Để rồi họ cố gắng phấn đấu và không tránh khỏi tranh giành bằng mọi thủ đoạn, do đó tệ nạn xã hội ngày nay cũng nhiều hơn ngày xưa.

Giới trẻ hay có khuynh hướng bắt chước, chúng cho rằng lối sống của những người nổi tiếng, các diễn viên, ca sĩ, cầu thủ tại các nước tiên tiến như Mỹ, Hàn Quốc… là hay, đáng ngưỡng mộ, do đó thi nhau mô phỏng, từ quần áo, giày dép cho tới kiểu tóc. Có những cô gái còn chạy theo lối sống phương tây, ăn mặc hở hang đi ngoài đường.

Thứ hai là vấn đề hôn nhân và nam nữ bình đẳng xưa và nay

Thông tin ảnh hưởng nhiều nhất đến giới trẻ, bởi vì chúng có nhiều khả năng tiếp cận thông tin hơn người lớn tuổi. Thông tin về cuộc sống cởi mở của xã hội phương tây lan tràn mạnh mẽ đến các xã hội Á Đông, hình ảnh sex rất dễ dàng tìm thấy trên internet, điều đó khiến giới trẻ hâm hở lao vào cuộc sống thử, nhất là giới học sinh, sinh viên đi học xa nhà. Nam nữ yêu nhau, thuê phòng trọ chung sống gọi là ở thử trước hôn nhân. Nhiều cặp như vậy chẳng bao giờ tiến tới hôn nhân cả, mà rốt cuộc là ê chề cay đắng. Nếu ngày xưa nữ sĩ Thái Diễm thời Đông Hán vì hoàn cảnh loạn lạc bị bắt đưa tới Nam Hung Nô, rồi bị trói buộc vì phận nữ nhi, bị xã hội thời xưa đối xử bất công, nên mới bị ô nhục, trải qua bốn đời chồng mới được yên phận. Số phận cay đắng của bà được chính bà diễn tả qua bài thơ :

Hồ Già 18 Phách – Phách 1 – Thái Diễm – Việt dịch Video
Còn giới trẻ ngày nay giống như con thiêu thân, tự lao đầu vào lửa đỏ của cuộc sống thử đầy bất trắc mà kết cục thường là dang dở, oán hận, mệt mỏi, chán đời. Thanh niên nam nữ được tự do luyến ái, được kết hôn theo sự chọn lựa của mình, nhưng kết quả thì sao ? Số vụ ly hôn ngày càng cao hơn hẳn so với ngày xưa.

Theo công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM, tỷ lệ ly hôn/kết hôn ở thành phố là 31,4%. Con số này cho thấy, trong 3 đôi kết hôn thì có một đôi ly hôn.

Nếu năm 1975, có 6.810 đôi vợ chồng Nhật Bản ly hôn sau 20 năm chung sống thì năm 2002 là 45.553, gấp khoảng sáu lần. Bà Atsuko Okano, tác giả cuốn Cuộc hôn nhân hoàn hảo viết: “Bạn tìm được người bạn đời lý tưởng thì bạn hạnh phúc nhưng nếu tôi không tìm được người như thế, tôi cũng có thể hạnh phúc khi sống một mình”. Sau đây là bảng nêu con số ly hôn trong 100 cuộc hôn nhân ở một số nước có tỉ lệ ly hôn cao trên thế giới (Số liệu thập niên 1990)

Thứ hạng Tên quốc gia Số vụ ly hôn /100 cuộc hôn nhân

1 Thụy Điển 54,9
2 Mỹ 54,8
3 Belarus 52,9
4 Phần Lan 51,2
5 Luxemboug 47,4
6 Estonia 46,7
7 Australia 46,1
8 Đan Mạch 44,5
9 Vương quốc Bỉ 44,0
10 Cộng hòa Séc 43,3

Có thể nói ở phương tây, trong hai cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Người ta sẵn sàng ly hôn mỗi khi có bất đồng chứ không cam chịu như ngày xưa nữa, bởi vì phụ nữ ngày nay cũng đi làm việc, có khả năng tự túc cuộc sống, thậm chí còn có nhiều khả năng kiếm tiền hơn đàn ông, bởi vì ngày càng có nhiều việc thích hợp cho phụ nữ làm, chẳng hạn nhà trẻ mẫu giáo, y tá hộ sinh, giáo viên tiểu học, ô-sin giúp việc nhà, công việc văn phòng, ngân hàng…nên chẳng có lý do gì để phụ nữ phải cam chịu áp bức.

Ngày xưa phụ nữ phải chịu bất công với quan niệm trọng nam khinh nữ. Từ lúc sinh thời của Khổng Tử, nhà giáo dục vĩ đại của Á Đông, phụ nữ đã không được coi là ngang hàng với nam giới. Con gái không được đi học, không biết chữ, không đọc được sách, thậm chí bị coi là tiểu nhân. Thời đó tiểu nhân không có nghĩa là người xấu, chỉ có nghĩa là người nhỏ. Tiểu nhân là người không có học vấn, không hiểu biết nhiều, không có chí lớn, không làm được việc lớn.

Trong số 3000 học trò của Khổng Tử, không có ai là nữ nhi. Dấu ấn của chế độ phụ hệ rất rõ ràng, con cái lấy theo họ cha, con gái lấy chồng thì trở thành người của bên chồng. Thậm chí quan niệm trọng nam khinh nữ được thực thi mạnh mẽ nhất là do những bà mẹ chồng mà cho đến ngày nay vẫn còn. Nếu ai có xem phim Đài Loan, Tình Đầu Khó Phai hiện còn chiếu trên đài truyền hình Vĩnh Long 1, thì ắt thấy rõ ai là người hành xử quan niệm trọng nam khinh nữ một cách triệt để nhất.

Do đó thời xưa chỉ có con gái của nhà quyền quý mới được học hành. Lịch sử văn học Trung Quốc cho ta thấy có một số rất ít phụ nữ có học vấn cao. Chẳng hạn đời Tây Hán có nàng Vương Tường 王牆 mà chúng ta quen với tên gọi Vương Chiêu Quân (ước 50TCN- ước 6CN) là một mỹ nhân có học vấn, có khả năng viết thư để bày tỏ tình cảnh của mình sau khi nàng đã bị đưa đi cống Hồ. Nàng vừa phải hi sinh, chịu lấy vua Hung Nô để bảo vệ hòa bình giữa Hán và Hung Nô. Được hai năm thì chồng là Thiền Vu Hô Hàn Tà qua đời, nàng sinh một con trai là Y Chư Trí Nha Sư 伊屠智牙師, nàng viết thư cho Hán Thành Đế tỏ ý muốn trở về, nhưng vua Hán yêu cầu nàng ở lại Hung Nô, tuân theo tục lệ xứ này, nàng phải lấy Thiền Vu kế tiếp là Phúc Chu Luy Nhược Đề, 復株累若鞮 con trai của Hô Hàn Tà và bà vợ lớn Đại Yên Chi, con gái của Hô Diễn Vương 呼衍王.

Thời Đông Hán có nàng Ban Chiêu 班昭 (45-116 CN), sinh ra trong một gia đình có học vấn cao, cha là Ban Bưu 班彪 một sử quan của triều đình, anh cả là Ban Cố 班固 nối nghiệp cha, viết sử cho thời đại của mình, anh hai là Ban Siêu 班超 một nhà chinh phục Tây Vực nổi tiếng. Ban Cố viết bộ Hán Thư chưa xong thì qua đời, Ban Chiêu tiếp tục hoàn thành công trình của anh cả, bộ Hán Thư được đánh giá ngang hàng với bộ sách Sử Ký của Tư mã Thiên. Bà đã viết sách Nữ giới 女誡 để khuyên răn phụ nữ đồng thời cũng đề xuất ý kiến rằng con gái cũng nên được hưởng chế độ giáo dục giống như con trai. Có thể nói Ban Chiêu là nữ sử học gia đầu tiên của cả thế giới. Bà có học vấn uyên thâm nên được cả triều đình kính trọng, thường đến Đông Quan tàng thư các giảng kinh sách cho các quan lại, nho sinh và cả một số học giả như Mã Dung, Mã Tục, tất cả họ đều là nam. Như thế chứng tỏ nữ có học vấn vẫn có địa vị cao trong xã hội.

Cuối thời Đông Hán còn có nàng Thái Diễm 蔡琰 (ước 177–ước 249CN) tự là Văn Cơ 文姬là con gái của Thái Ung 蔡邕, đại danh nho đời Hán, là người rất tài hoa, học rộng, giỏi thư pháp và âm nhạc, là nhà thơ nữ nổi tiếng. Hôn nhân lận đận, vô cùng đau khổ vì gặp thời loạn lạc, bị bắt qua nước Nam Hung Nô làm nô lệ, sau được Tào Tháo chuộc về. Nàng lấy chồng 4 lần, phải đến người chồng thứ tư mới tìm được hạnh phúc và con cái hiển đạt. Con gái Dương Huy Du 羊徽瑜 lấy Tư mã Sư, sau được phong Cảnh Hiến 景獻 hoàng hậu. Con trai Dương Hỗ 羊祜 là danh tướng đời Tây Tấn. Nàng có trí nhớ phi thường, cha nàng có khoảng 4000 quyển sách nhưng bị thất lạc mất cả, nàng thuộc lòng và viết lại được cho Tào Tháo khoảng 400 quyển.

Qua câu chuyện của ba phụ nữ nổi tiếng đời xưa, chúng ta thấy gì ? Nàng Chiêu Quân đem tấm thân nhi nữ của mình, chấp nhận lấy cả hai cha con Thiền Vu Hô Hàn Tà và Phúc Chu Luy Nhược Đề để giữ gìn hòa bình giữa hai nước Hán và Hồ. Sự hi sinh trinh tiết của nàng đã bảo vệ hòa bình được khoảng 60 năm, giúp cho nhân dân hai nước tránh được chiến tranh loạn lạc, chết chóc, quả thật là người có công rất lớn đối với Nhà Hán. Ban Chiêu là nữ sử học gia đầu tiên của Trung Quốc và thế giới, nàng có nguyện vọng con gái cũng được học hành như con trai, cách nay 2000 năm, giữa thời đại trọng nam khinh nữ, chủ trương đó là vô cùng tiến bộ. Ngày nay thì nguyện vọng đó đã được thực hiện. Thái Diễm là phụ nữ thời loạn, nàng có học vấn cao, nhiều tài hoa, mà phải chịu đựng bao nhiêu ô nhục đau khổ của thời loạn nhưng không gục ngã, không tự tử, cuối cùng vẫn vươn lên được, con cái vẫn hiển đạt, thể hiện sự can đảm, nhẫn nại phi thường của phụ nữ.

Ngày nay quan niệm nam nữ bình đẳng được tuyên dương rộng rãi. Tuy nhiên quan niệm trọng nam khinh nữ chưa phải đã hết, bằng chứng là sự chênh lệch giới tính giữa số lượng bé trai và bé gái sơ sinh, cụ thể ở Việt Nam hiện là 114 nam/100 nữ. Tỉ lện này ở Trung Quốc hiện nay là 118 nam/100 nữ. Tỉ lệ này ở Hàn Quốc thập niên 1990 là 115nam/100 nữ và ở Đài Loan là 110nam/100 nữ. Đến ngày nay (2015) thì Hàn Quốc và Đài Loan đã cân bằng được giới tính trong khi ở Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn mất cân bằng nghiêm trọng. Hậu quả của mất cân bằng giới tính là đàn ông Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc không tìm được vợ ở xứ mình, phải qua xứ khác, chẳng hạn Việt Nam tìm vợ. Tất nhiên ngoài vấn đề mất cân bằng giới tính còn nguyên nhân kinh tế, lấy vợ ở Việt Nam tốn tiền ít hơn, cho nên dù ở VN mất cân bằng giới tính vẫn trầm trọng, rất nhiều phụ nữ vẫn lấy chồng Đài Loan, Trung Quốc và Hàn Quốc để mong cuộc sống khá hơn.

Thứ ba là vấn đề bạo lực, khủng bố, chiến tranh, tranh giành tài nguyên lãnh thổ biển đảo và chạy đua vũ trang

Vấn đề này ngày càng trầm trọng. Bạo lực đường phố mang mỹ danh là cuộc cách mạng hoa nhài làm sụp đổ những chính quyền độc tài ở Tunisia, Yemen, Ai Cập, Libya. Biểu tình của người dân cùng với đảo chính quân sự làm sụp đổ chính quyền của Bà Yingluck tại Thái Lan. Cuộc biểu tình ở quảng trường Maidan, Ukraina làm sụp đổ chính quyền độc tài, tham nhũng của tổng thống Victor Yanukovytch. Những cuộc biểu tình này có cái nhãn là dân chủ nhưng hậu quả thật khó lường. Tại các nước đó tình hình càng tồi tệ hơn rất nhiều. Đa số các nước là rối loạn tệ hại, đất nước tan nát vì các phe phái tranh giành quyền lực. Ukraina chẳng những rối loạn mà còn bị mất những vùng lãnh thổ quan trọng của quốc gia, cụ thể là bán đảo Crimea và vùng miền đông ở hai nước cộng hòa tự xưng Donetsk và Lugansk. Riêng nước Syria, cuộc cách mạng dân chủ chưa giành được thắng lợi, phe cách mạng và phe chính quyền vẫn còn hỗn chiến làm chết hơn 216 ngàn người, 4 triệu người phải di cư lánh nạn. Tình hình hỗn loạn là cơ hội cho nhà nước Hồi giáo IS (Islamic State) chiếm một vùng đất tại Iraq và Syria để làm địa bàn hoạt động, chiêu mộ thanh niên cực đoan tại tất cả các nước trên thế giới đến tham gia “thánh chiến”. Tại Thái Lan thì nền dân chủ bị thoái bộ khi quân đội nắm chính quyền.

Vấn đề khủng bố ngày càng kinh khiếp. Tối ngày 14/4/2014, khi một nhóm vũ trang cực đoan với súng máy trong tay xông vào cư xá trường trung học công lập nữ tại làng Chibok, thuộc thị trấn Gwoza, vùng đông bắc hẻo lánh của Nigeria, bắt giữ hơn 300 nữ sinh làm con tin. Có 53 em may mắn trốn thoát, số còn lại bị bắt đi. Ngày 31/10/2014, trong một video clip dài 12 phút được phát tán trên mạng, thủ lĩnh của tổ chức Hồi giáo cực đoan Boko Haram đã tuyên bố, thông báo: 219 nữ sinh bị bắt cóc tại làng Chibok đã cải sang đạo Hồi và được kết hôn. Ngày 16 tháng 12 năm 2014 cuộc tấn công khủng bố nhằm vào Trường quân sự công lập Peshawar ở thành phố Peshawar, Pakistan do Taliban tiến hành làm chết 141 người, đa số là trẻ em. Ngày 2-4-2015, nhóm Al-Shabad tấn công bắn giết sinh viên tại đại học thành phố Garissa nước Kenya làm chết 148 người. Đó là một vài cuộc khủng bố kinh hoàng tiêu biểu cho vấn đề khủng bố ngày nay.

Nhiều cuộc chiến tranh đã nổ ra vì tranh giành tài nguyên như Cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991) nhằm bảo vệ các mỏ dầu của Kuwait chống lại nước Iraq của Saddam Hussain. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh Persique (Persian Gulf = vịnh Ba Tư) lần thứ hai (2001) nhằm tiêu diệt Taliban và Al-Qaeda tại Afghanistan sau biến cố khủng bố 11-09-2001 tại Mỹ.

Ngoài ra có rất nhiều cuộc tranh cãi về biển đảo như vấn đề Senkaku/Điếu Ngư giữa TQ và Nhật Bản vì vị trí chiến lược của hòn đảo và cũng vì dầu mỏ và tài nguyên biển. Cuộc tranh giành Biển Đông trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa TQ, VN và các nước Đông Nam Á khác; cuộc tranh giành đảo Dokdo/Takeshima giữa Nhật Bản và Hàn Quốc; cuộc tranh giành quần đảo Kourines giữa Nga và Nhật; cuộc tranh giành khu vực biên giới Aksai Chin và bang Arunachai Pradesh giữa TQ và Ấn Độ; cuộc tranh giành các tiểu vương quốc Jammu và Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan…chung quy cũng vì vấn đề tài nguyên lãnh thổ.

Chạy đua vũ trang: các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới công khai hoặc âm thầm tăng cường sức mạnh quân sự của mình, nói là để tự vệ nhưng thật ra cũng có thể tấn công khi thấy có cơ hội. Năm nước thường trực Hội đồng Bảo an LHQ đều có vũ khí nguyên tử. Một số nước khác cũng đã phát triển vũ khí nguyên tử, có tiến hành thử nghiệm là Ấn Độ, Pakistan, Bắc Triều Tiên. Israel không công khai thử nghiệm nhưng người ta cho rằng nước này cũng đã có vũ khí nguyên tử. Mỹ là nước có ngân sách quân sự lớn nhất thế giới, năm 2014 là 598 tỉ đô la, đứng thứ hai là TQ với 139 tỉ đô la, đứng thứ ba là Nga với 68 tỉ đô la. Các cường quốc quân sự hàng đầu thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc có rất nhiều đầu đạn hạt nhân có thể bắn tới các đối thủ chính bằng tên lửa đạn đạo phóng từ đất liền, trong các giếng ngầm hay hầm ngầm trong lòng đất, trên các bệ phóng di động, hay từ các tàu ngầm núp trong lòng biển. Họ cũng có vũ khí để phá hủy vệ tinh của đối phương trong không gian khiến cho các tên lửa đạn đạo không còn được hướng dẫn chính xác. Họ đều có hệ thống vệ tinh định vị riêng. Mỹ có GPS, Nga có Glonass, TQ có Bắc Đẩu. Về lực lượng quy ước, Mỹ có 11 hàng không mẫu hạm (HKMH), Nga và TQ mỗi nước chỉ có một HKMH nhưng họ lại có rất nhiều tên lửa tầm xa, tầm trung và tầm ngắn, có khả năng đánh chìm HKMH và tàu chiến, ngăn chặn không cho HKMH của đối phương tiến gần bờ biển của họ. Nga có 15.000 xe tăng trong đó 2500 xe tăng hiện đại, TQ có 10.000 xe tăng trong đó 4000 xe tăng hiện đại. Mỹ có 8000 xe tăng trong đó phần lớn là xe tăng hiện đại M1-Abrams đã đưa vào sử dụng từ năm 1980.

Những cuộc tranh giành tài nguyên biển đảo và chạy đua vũ trang làm cho thế giới luôn bất an và có nguy cơ tiêu diệt cả nhân loại nếu có một cuộc chiến tranh nguyên tử xảy ra giữa hai trong ba siêu cường nói trên. Trong trường hợp không xảy ra chiến tranh trực tiếp giữa ba nước đó, sự bất hòa giữa bọn họ cũng gây khủng hoảng triền miên, là điều chúng ta đang thấy tại Syria và Ukraina. Ngoài ra chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan cũng đang gây ra nhiều bạo loạn cho thế giới.

Thứ tư là vấn đề kinh tế thế giới phát triển không ổn định, người lao động thất nghiệp và thanh niên mất niềm tin

Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 là một cột mốc đánh dấu sự bất ổn của kinh tế thế giới xuất phát từ Châu Á. Những nước bị ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng này là Thái Lan với sự ra đi của thủ tướng Chavalit Yongchaiyudh, Indonesia với sự ra đi của tổng thống Suharto, Hàn Quốc, đồng won mất giá 70%. Sau sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản từ sau thế chiến thứ hai đến hết thập niên 1980, kinh tế Nhật bước vào giai đoạn tuột dốc, nguyên nhân vì gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của 4 con rồng nhỏ Châu Á bao gồm: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong và Singapore. Tuy nhiên 4 con rồng nhỏ này chỉ góp phần chứ chưa đủ sức làm suy yếu kinh tế Nhật Bản, chỉ đến khi con rồng lớn Trung Quốc cất cánh bay lên, sau 10 năm cải cách mở cửa, thì kinh tế Nhật mới thực sự xuống dốc kể từ đầu thập niên 1990. Kinh tế Mỹ, nước có GDP đứng đầu thế giới vẫn phát triển tốt nhờ sự phát minh máy vi tính, các thiết bị thông tin và hệ thống internet. Nhưng đến cuộc khủng hoảng tài chính 2008, nước Mỹ và cả Châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề, bước vào giai đoạn khó khăn kéo dài. Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers (đứng thứ tư ở Mỹ sau Goldman Sach, Morgan Stanley và Merrill Lynch) tuyên bố phá sản. Đến 2009, Mỹ lần đầu tiên đánh mất vị trí số 1 thế giới về sản xuất và tiêu thụ xe hơi mà nước này đã giữ suốt 100 năm. Cuộc khủng hoảng vẫn còn tiếp tục cho đến nay, nhiều nước Châu Âu không còn khả năng cân đối ngân sách, phải xin cứu trợ như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy. Kinh tế của các cường quốc như Anh, Pháp cũng chỉ chống đỡ lây lất qua ngày. Nước Anh mạnh tay cắt giảm nhiều thứ chi phí không tuyệt đối cần thiết, chẳng hạn từ ngày 26-03-2011, chương trình phát thanh tiếng Việt trên sóng radio đã không còn sau 59 năm hoạt động.

Kinh tế Mỹ đã cố gắng gượng lại trong khi kinh tế Châu Âu vẫn còn rất nhiều khó khăn, tốc độ phát triển rất thấp. Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc vượt qua Nhật Bản, chiếm vị trí số 2 thế giới về GDP từ năm 2009; và đến năm 2014, nếu tính GDP theo phương pháp ngang giá (PPP= Purchasing Power Parity) thì đã đuổi kịp Mỹ. Tuy nhiên kinh tế Trung Quốc cũng bước vào giai đoạn giảm tốc đáng kể, nếu trước kia tốc độ phát triển trung bình hàng năm là 10% thì đến 2014 chỉ còn 7,4 % và kế hoạch 2015 chỉ còn 7%.

Kinh tế trì trệ và nạn thất nghiệp hiện đang diễn ra tại các nước Âu Châu một thời phồn vinh, nhưng nay nợ công quá nhiều, nhà nước mất khả năng thanh toán, tỉ lệ thất nghiệp rất cao. Đứng đầu là Hy Lạp, nước đã tổ chức Thế Vận Hội Athens 2004. Nay thì vỡ nợ, tỉ lệ thất nghiệp của Hy Lạp lên tới 29% năm 2013, của Tây Ban Nha là 25,8 %. Tỉ lệ thất nghiệp của Italy là 12,7% năm 2014.

Trong năm 2013, người ta có làm một thống kê về tỉ lệ thanh niên Châu Âu trong độ tuổi lao động từ 25 tuổi trở xuống bị thất nghiệp, năm nước chiếm các vị trí đầu bảng là : Hy Lạp 59%, Tây Ban Nha 55,7%, Croatia 49,9%, Italia 41,6 %, Cộng hòa Síp 38,7 %.

Tình trạng thanh niên thất nghiệp lâu dài khiến cuộc sống của họ bấp bênh, họ trở nên mất niềm tin và dễ ngã theo những chủ nghĩa cực đoan, một số sẵn sàng tìm cách trốn sang Iraq và Syria bán mạng cho nhà nước Hồi giáo IS.

Vị trí thành phố Melilla và Ceuta là hai nơi tại Morocco chuyên tuyển mộ thanh niên Châu Âu cho nhà nước Hồi giáo

Thứ năm là vấn đề thiên tai ngày càng trầm trọng, không khí ô nhiễm, nước biển dâng cao, thực phẩm độc hại  
    
Cuộc động đất và sóng thần tại Ấn Độ Dương ngoài khơi Indonesia ngày 26-04-2004 với những con sóng cao đến 30m, giết chết 225.000 người tại 11 quốc gia trong đó nặng nề nhất là tại Aceh, Indonesia với 130.000 người chết và mất tích.

Cuộc động đất và sóng thần ngoài khơi Nhật Bản xảy ra ngày 11-03-2011 khiến cho 19.000 người chết và mất tích. Ngoài hậu quả trực tiếp của sóng thần, có 4 nhà máy điện nguyên tử của Nhật Bản bị nổ, thiệt hại nặng nhất là nhà máy điện nguyên tử Fukushima số 1, các thanh nhiên liệu uranium bị tan chảy, gây ra rò rỉ phóng xạ, để lại hậu quả lâu dài, 200.000 người phải di dời vì sợ nhiễm phóng xạ. Bốn năm sau sóng thần, vẫn còn 230.000 người sống trong tình trạng khó khăn vì bị ảnh hưởng bởi sóng thần phá tan nhà cửa và vì phóng xạ của 4 nhà máy điện nguyên tử hư hỏng nặng, không thể trở về đất cũ, nhà cũ để xây dựng lại cuộc sống.

Siêu bão Haiyan (Hải Yến) quét qua Philippines ngày 08-11-2013 gây tàn phá khủng khiếp với sức gió 230km/giờ, lúc cao nhất lên tới 315km/giờ, 6300 người thiệt mạng, 4 triệu người bị mất nhà cửa.

Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) gần đây đã đưa ra báo cáo về ô nhiễm không khí năm vừa qua, dựa trên số liệu về mức độ ô nhiễm của 1.600 thành phố trên khắp 19 quốc gia. Tổ chức này đã sử dụng hệ thống đánh giá có tên là PM2.5

PM2.5 được coi là hệ thống tốt nhất được dùng để đánh giá tác động của ô nhiễm không khí lên sức khỏe và xác định nồng độ bụi ô nhiễm có đường kính từ 2,5 micromet trở xuống.  Theo WHO, chỉ số PM2.5 được coi tạm an toàn là từ 25 microgram/m3 trở xuống. Kết quả khảo sát thực tế tại các quốc gia ô nhiễm cao như sau :

Quốc gia                                  Chỉ số PM2.5 trung bình

Pakistan                                                 100 microgram/m3

Qatar                                                        92 microgram/m3

Afghanistan                                            84 microgram/m3

Bangladesh                                            79 microgram/m3

Iran                                                          76 microgram/m3

Ai Cập                                                      74 microgram/m3

Mông Cổ                                                  64 microgram/m3

Các tiểu vương quốc Ả rập TN(UAE) 61 microgram/m3

Ấn Độ                                                        59 microgram/m3

Bahrain                                                      57 microgram/m3

Ngày 06-04-2015, đại sứ quán Mỹ tại New Delhi công bố mức độ ô nhiễm không khí ở thủ đô Ấn Độ là 175 microgram/m3 PM2.5, cao hơn gấp 7 lần mức an toàn. Năm 2013 chỉ số PM2.5 trung bình ở thủ đô Bắc Kinh là 89,5 microgram/m3 khiến nó được liệt vào thành phố ô nhiễm bậc nhất trên thế giới, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với New Delhi.
 Bầu không khí ô nhiễm ở Bắc Kinh

Một vấn đề đáng ngại nhất là hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ địa cầu, băng ở hai cực tan chảy, nước biển dâng cao. Mặt khác do con người khai thác nước ngầm quá nhiều dẫn đến hậu quả đất bị lún, biểu hiện mà con người nhìn thấy là triều cường ngày càng cao, nước ngập ngày càng sâu. Những nền nhà cao mà trước kia không bao giờ bị ngập, nay đều có thể bị ngập hàng năm. Một phần lớn đất ở và đất canh tác của những nước ven biển như Việt Nam có nguy cơ bị nước ngập, đời sống con người bị đe dọa.

Thực phẩm độc hại cũng là vấn đề mà chúng ta thường gặp phải trong đời sống. Thực phẩm độc hại vì người ta sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc kích thích sinh trưởng quá nhiều, ngoài ra còn vấn đề thay đổi gen. Lê, táo, mận, dưa hấu, rau cải, thịt, cá…ngày nay không an toàn khi ăn. Ngay món cơ bản là cơm gạo cũng nhiễm thuốc sâu. Thuốc sâu đổ xuống ruộng đồng, theo nước vào sông rạch, tôm cá, sinh vật hoang dã cũng bị nhiễm. Tôm cá, sinh vật nuôi càng bị nhiễm các loại thuốc bảo vệ động thực vật.

Thứ sáu là vấn đề xã hội bị lão hóa nhanh chóng

Nước đông dân nhất thế giới Trung Quốc đang đứng trước vấn đề khó khăn nhất là dân số bị lão hóa nhanh chóng. Hậu quả của chính sách một con sau hơn 30 năm thi hành khiến một người trưởng thành hiện nay phải mang gánh trách nhiệm nặng nề là nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ, họ ngày càng sống thọ hơn nhưng con cháu thì rất ít. Dự báo đến năm 2030, số người già từ 60 tuổi trở lên ở Trung Quốc sẽ là 350 triệu người, chiếm ¼ dân số. Tại Việt Nam, kết quả cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở ngày 01/04/2009 cho thấy, số người từ 60 tuổi trở lên là 9% , dự kiến đến năm 2025, VN sẽ bước vào thời kỳ dân số già. Ở Hàn Quốc, năm 2010 tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 11% dân số. Theo dự báo, đến năm 2016 tỷ lệ này là 18,1% và quốc gia này sẽ được coi là có dân số già.

Trên thế giới nói chung, vào ngày 31-10-2011 dân số thế giới đạt mốc 7 tỷ người và 1/9 trong số này là người từ 60 tuổi trở lên. Theo dự báo, đến năm 2050 dân số thế giới đạt 9,2 tỷ người và tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên sẽ là 1/5 tức 1,84 tỷ người.

Nguyên nhân khiến cho dân số bị lão hóa nhanh chóng là tuổi thọ con người ngày càng cao. Tại VN vào năm 1945, cách nay 70 năm, tuổi thọ trung bình cả nước chỉ là 38, còn ngày nay (2014) là 73,2 tức tăng gần gấp đôi. Một nguyên nhân khác là tỉ suất sinh ngày càng thấp. Năm 1957, tỉ suất sinh tại VN là 4,4% nghĩa là trong 100 dân thì một năm có 4,4 đứa trẻ ra đời. Đến 2014, tỉ suất sinh chỉ còn 1,93 % nghĩa là trong 100 dân thì một năm chỉ có chưa tới 2 đứa trẻ ra đời. Lý do của các nguyên nhân này là do chính sách hạn chế dân số của nhà nước, mặt khác do áp lực kinh tế và giáo dục khiến phụ nữ không thể sinh nhiều vì không nuôi nổi, ngoài ra nhiều người đã ý thức rằng cần phải cho con cái và bản thân mình một cuộc sống có chất lượng cao hơn. Mặt khác do sự tiến bộ của y học và đời sống được cải thiện nên tuổi thọ tăng lên đáng kể.

Ở một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, do tỉ suất sinh quá thấp, lại hạn chế nhập cư từ nước ngoài nên dân số giảm. Theo một nghiên cứu của Dịch vụ Nghiên cứu Quốc hội (NARS) tại Seoul, Hàn Quốc đang đứng trước nguy cơ. Tỷ suất sinh giảm xuống, mức mới nhất là 1,19 trẻ/một phụ nữ vào năm 2013, khiến cho dân số Hàn Quốc hiện nay là 50 triệu, giảm xuống chỉ còn 40 triệu vào năm 2056 và chỉ còn 10 triệu vào năm 2136 và cuối cùng diệt vong vào năm 2750.

Theo một báo cáo của Viện nghiên cứu thành phố Sendai thì tỷ lệ sinh của Nhật Bản giảm mạnh ngay sau thảm họa động đất sóng thần hồi tháng 3 năm 2011, chỉ còn 1,35 trẻ/phụ nữ, với đà đó thì dân số Nhật hiện nay là 127,7 triệu người, sẽ giảm 1/3 sau 100 năm và cũng sẽ tuyệt chủng sau một thiên niên kỷ tức là vào năm 3011. Nếu dự báo trên còn có vẻ xa vời thì thực tế tại thành phố Yubari trên hòn đảo Hokkaido lại là hiện thực. Thành phố này có 120.000 dân vào năm 1960 và là thủ phủ của ngành than đá, nhưng dân số giảm cực kỳ nhanh, đến năm 2007 chỉ còn dưới 10.000 dân khi thành phố bị vỡ nợ và hiện đang đứng trước nguy cơ diệt vong.

Thứ bảy là vấn đề tai nạn giao thông

Hàng ngày nếu chúng ta xem tin tức trên truyền hình và báo chí, sẽ thấy tai nạn giao thông là vấn đề thường trực gây chết chóc đau thương mất mát cho hàng vạn người mỗi năm trên thế giới.

Tai nạn xe hơi và xe máy nhiều không kể xiết. Còn tai nạn xe lửa, máy bay và tàu thủy làm chết hàng trăm người mỗi vụ cũng thường xuyên xảy ra.
Ngày 23 tháng bảy năm 2011, hai tàu cao tốc đâm vào nhau ở quận Lộc Thành, Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Một số toa xe của mỗi tàu bị trật đường ray. Các đoàn tàu đang trên tuyến đường sắt Ninh Ba – Thai Châu – Ôn Châu khi sự cố xảy ra. Theo các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc, có 40 trường hợp tử vong, và ít nhất 192 người phải nhập viện, trong đó có 12 người bị thương nặng.

Tai nạn xe lửa tại Santiago de Compostela xảy ra vào ngày 24 tháng 7 năm 2013, khi một chuyến xe lửa cao tốc loại Alvia chạy từ Madrid tới Ferrol, ở vùng tây bắc Tây Ban Nha, trật đường ray với một tốc độ rất cao tại một khúc quanh, cách trạm xe lửa Santiago de Compostela khoảng 4 kilômét. Trong số 222 người trên tàu (218 hành khách và 4 nhân viên), khoảng 140 bị thương và 80 người chết.

Ít nhất 40 người chết và hơn 150 người khác bị thương khi đoàn tàu chở khách tốc hành đâm trực diện vào một tàu hỏa chở hàng ở miền bắc Ấn Độ ngày 26/5/2014. Theo AP, vụ tai nạn xảy ra tại một nhà ga ở bang Uttar Pradesh, khi đoàn tàu chở khách Gorakhpur Express tông vào một tàu chở hàng.

Phà Sewol của Hàn Quốc bị lật vào ngày 16 tháng 4 năm 2014. Phà chở 459 người trong đó có 325 học sinh của trường Trung học Danwon, 15 giáo viên, 30 thành viên thủy thủ đoàn và 89 hành khách khác. Tàu đang trên hành trình từ thành phố Incheon đến thành phố Jeju. Khi cách đảo Byungpoong khoảng 2,7 km thì chiếc phà này phát tín hiệu báo nguy vì bị lật nghiêng. Hơn 300 người thiệt mạng đa số là học sinh, 9 người đến nay vẫn còn mất tích.

Rạng sáng nay, 24/2/2015 (theo giờ Việt Nam), một vụ va chạm giữa phà chở khách và tàu đánh cá trên sông Padma ở miền Trung Bangladesh khiến ít nhất 70 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị thương. Một nửa trong số đó là phụ nữ và trẻ em, 50 hành khách đã được cứu thoát.
Đúng ngày phụ nữ 08-03-2014 máy bay MH370 của hãng hàng không Malaysia đang bay từ Kuala Lumpur đến Bắc Kinh, đột nhiên biến mất, mang theo 239 hành khách và phi hành đoàn, người ta đã tổ chức một cuộc tìm kiếm rầm rộ cả tháng trời nhưng không tìm thấy một dấu vết nhỏ nào, cho đến tận hôm nay hơn một năm sau, vẫn không có tin tức gì.

Một máy bay khác cũng của hàng không Malaysia số hiệu MH17 khởi hành từ sân bay Schiphol ở Amsterdam lúc 10:15 GMT (12:15, giờ địa phương) ngày 17/7 /2014 để tới sân bay quốc tế Kuala Lumpur của Malaysia. Đến không phận phía đông Ukraina vùng đang xảy ra chiến tranh giữa nhà nước Ukraina và hai nhóm ly khai Donetsk và Lugansk thì bị bắn rơi, khiến 298 hành khách tử nạn trong đó có 80 trẻ em.

Ngày 24-03-2015 máy bay Airbus 320 của hãng hàng không Germanwings, thuộc hãng Lufthansa, đâm vào dãy núi Alpes tại Pháp, khiến tất cả 150 người trên máy bay thiệt mạng. Thông tin từ hộp đen cho thấy cơ phó Andreas Lubitz, 27 tuổi trước đó có dấu hiệu trầm cảm, đã khóa cửa phòng lái không cho cơ trưởng trở vào sau khi đi vệ sinh, anh ta hạ độ cao, tăng tốc cố ý đâm vào núi khiến phi cơ vỡ tan tành.

A general view of debris, seen in this picture made available to the media by the French Interior Ministry, from wreckage of a Germanwings Airbus A320, near Seyne-les-Alpes
Chiếc máy bay Airbus 320 của hãng Germanwings đâm vào dãy núi Alpes ở Pháp, vỡ nát
Thứ tám là vấn đề dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và con người

Dịch bệnh thường xuyên xảy ra cho gia súc, gia cầm và con người. Chúng ta từng nghe nói đại dịch AIDS, dịch SARS xuất phát từ Hong Kong, dịch H5N1 lây nhiễm từ gia cầm và dịch Ebola gây nhiều tử vong cho con người.

HIV(Human Immunodeficiency Virus) /AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome ) là từ viết tắt của loại virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Khi vào cơ thể người, loại virus này tấn công và phá vỡ hệ thống miễn dịch, dẫn đến tình trạng gọi là AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Nếu không có một hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, những người bị AIDS sẽ dễ bị mắc phải những tổn thương khác, thường gây ra nhiễm trùng, dẫn đến tử vong. Virus lây lan qua máu, tinh dịch và chất dịch cơ thể khác. Hầu hết những người nhiễm virus HIV đều qua quan hệ tình dục hoặc chia sẻ thuốc tiêm với người bị nhiễm. Kể từ khi xuất hiện vào những năm 1980, HIV đã lây nhiễm sang 60 triệu người và khiến khoảng 30 triệu người tử vong.

SARS (Severe Acute Respiratory Syndrome) là chữ viết tắt của Hội chứng hô hấp cấp nặng, được gây ra bởi coronavirus SARS. Lần đầu tiên virus này nhiễm vào cơ thể người là vào cuối năm 2002 ở Trung Quốc. Trong vòng vài tuần, nó lây lan sang 37 quốc gia thông qua đường du lịch hàng không. Virus SARS đã lây nhiễm sang khoảng 8.000 người trên toàn thế giới, trong đó khoảng 800 người tử vong.

Cúm gà hay cúm gia cầm là một loại bệnh cúm do virus gây ra cho các loài gia cầm (hay chim), và có thể xâm nhiễm một số loài động vật có vú. Virus này được phát hiện lần đầu tiên là tại Ý vào đầu thập niên 1900 và giờ đây phát hiện ở hầu hết các nơi trên thế giới. Virus cúm gà có tên khoa học là Avian Influenza (AI) thuộc nhóm virus cúm A của họ Orthomyxociridae. H5N1 là phân nhóm virus cúm gia cầm có khả năng xâm nhiễm cao. Từ 1997, sự bùng phát của virus H5N1 đã làm nhiễm bệnh và chết hàng chục triệu gia cầm. Từ tháng 12 năm 2003 đến tháng 5 năm 2009 đã có 258 người tử vong do cúm gia cầm trong số 423 ca nhiễm H5N1 tại 15 nước, chủ yếu ở châu Á, theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới-WHO. Đến tháng 5 năm 2009 Indonesia là nước có nhiều ca tử vong nhất do H5N1, với 115 người chết trong 141 ca nhiễm. Ở Việt Nam có 56 ca tử vong trong 111 người nhiễm kể từ 2003. Năm 2009 Việt Nam tuyên bố có năm bệnh nhân tử vong vì H5N1.

Dịch bệnh Ebola do virus Ebola đang diễn ra ở Tây Phi. Sự bùng nổ là do virus ebola Zaire, còn được gọi đơn giản là virus Ebola. Đó là sự bùng phát nghiêm trọng nhất của dịch Ebola tính theo số lượng các ca nhiễm và số người tử vong kể từ khi phát hiện ra virus trong năm 1976. Dịch bệnh bắt đầu tại Guinée trong tháng 12 năm 2013 nhưng đã không được phát hiện cho đến tháng 3 năm 2014, sau đó nó lây lan sang Liberia, Sierra Leone, Nigeria và các nước khác. Đến ngày 01-04-2015, trên thế giới đã có 25.178 người nhiễm bệnh và 10.445 người tử vong vì Ebola.

Thứ chín là vấn đề nền giáo dục bất cập

Nền giáo dục bất cập là nền giáo dục không dạy cho học sinh những tri kiến cần thiết cho cuộc sống an vui hạnh phúc của chúng, mà chỉ dạy cho chúng những tri thức mà đa số người trong xã hội thừa nhận. Tuy được đa số người trong xã hội thừa nhận nhưng có chắc gì những tri thức đó là đúng đắn ? mà có thể có sai lầm thậm chí là hết sức sai lầm, bởi vì trình độ hiểu biết của đa số luôn luôn là một trình độ phổ thông, mà trình độ phổ thông khó có thể hiểu được những vấn đề sâu xa của thế giới. Nói cụ thể nền giáo dục hiện tại bất cập ở những điểm nào ?

Thứ nhất, trong môn vật lý học, cơ học lượng tử đã có những bước phát triển rất lớn, những tri thức mới rút ra được rất khác xa cơ học cổ điển, nhưng trong trường học người ta vẫn chỉ tiếp tục dạy cơ học cổ điển, trong khi những tri thức mới cực kỳ quan trọng thì bị lờ đi. Chẳng hạn những hạt cơ bản của vật chất có những tính chất rất kỳ lạ như : phi hiện thực (non realism), bất định xứ (non locality), phi số lượng (non quantity) mà không có trong chương trình giáo dục của bất cứ nước nào, chỉ có ai tự tìm hiểu mới biết được. Những tính chất đó dẫn tới những kết luận vô cùng quan trọng là không gian, thời gian và số lượng vật chất đều không có thực thể, nghĩa là ảo, có nhiều thí nghiệm khoa học chứng tỏ như vậy, nhưng học sinh kể cả đa số sinh viên đều không được học, không được biết.

Thứ hai, trong toán học, người ta đã biết rằng cả số học và hình học không hoàn toàn lô gích, mà mang tính chất kinh nghiệm, tùy tiện, bởi vì toán học bị hạn chế bởi định lý bất toàn (incompleteness theorem) mà Kurt Godel phát hiện và công bố năm 1931. Ngoài ra trong vật lý học, người ta đã khám phá ra tính chất phi số lượng của vật chất, như vậy con số định lượng của các phương trình toán học chỉ là biểu kiến, là ảo, là tùy tiện, chứ không phải chân lý. Thế nhưng học sinh và sinh viên chưa bao giờ được học về điều này.

Thứ ba trong sinh học, xưa nay người ta chỉ dạy cho học sinh tri thức về sinh vật tiến hóa của Darwin mà không dạy những phát hiện mới của khoa khảo cổ. Những phát hiện mới này có thể phản bác thuyết sinh vật tiến hóa. Người ta phát hiện rằng sinh vật đột ngột xuất hiện rất nhiều trong kỷ Cambri cách nay từ 570 triệu năm cho tới cách nay 505 triệu năm. Trong khoảng thời gian 65 triệu năm đó, nhiều động vật lớn lại xuất hiện trong một thời kỳ địa chất còn ngắn hơn rất nhiều, chỉ kéo dài không quá 5 triệu năm. Các hóa thạch được tìm thấy trong các khối đá thuộc kỷ Cambri gồm rất nhiều sinh vật rất khác nhau, như ốc sên, bọ ba thùy, bọt biển, con sứa, sao biển, sò ốc, vv… Hầu hết các sinh vật trong lớp địa chất này có các hệ thống phức tạp và cấu trúc cao cấp, như mắt, mang, và hệ tuần hoàn, hoàn toàn giống như trong các mẫu vật hiện đại. Như vậy không có sự tiến hóa.

Ngoài ra, ngay trong thời hiện đại cũng có những hiện tượng phi thường mà khoa học duy vật cổ điển không thể hiểu được, điều đó chứng tỏ sự bất cập của tri thức khoa học truyền thống, do đó cần thiết phải mở rộng tri thức khoa học sang lĩnh vực tâm linh, điều mà cơ học lượng tử cũng đã đặt vấn đề từ đầu thế kỷ 20. Cơ học lượng tử đặt ra vấn đề gì ? Niels Bhor nói :“Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật). Werner Heisenberg nói : “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật). Nếu nguyên tử không phải là vật thật, mà chỉ là một ảo ảnh, thì tất cả tri thức mà nền giáo dục của chúng ta dạy dỗ cho học sinh đều bị sụp đổ hết. Nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein đẵ đặt cược tương lai của cả nền khoa học của nhân loại vào câu ông chất vấn Niels Bhor : “”What cannot be observed does not exist. ….. and “Do you really think the moon isn’t there if you aren’t looking at it?” (Cái gì không được quan sát thì không tồn tại…” và “Phải chăng ông thực sự nghĩ rằng mặt trăng không có ở đó nếu ông không nhìn nó ?” Vấn nạn này Niels Bhor chưa trả lời thông suốt trong suốt cuộc đời ông. Nhưng đến năm 1982 thì Alain Aspect đã tiến hành một cuộc thí nghiệm quan trọng tại Paris, lần đầu tiên áp dụng bất đẳng thức Bell để kiểm tra giả thuyết EPR mà Einstein, Podolsky và Rosen đã nêu ra từ năm 1935. Kết quả là Niels Bhor và Heisenberg đúng, còn nhóm Einstein sai. Ngày nay các nhà vật lý hàng đầu thế giới biết rằng hạt electron (cái mà chúng ta thấy là núi sông, nhà cửa, xe cộ, tinh tú, vũ trụ van vật cứng chắc) nếu không bị con người quan sát hay đo đạc, thì chỉ là tiềm thể, là sóng vô hình, không phải vật chất, và chỉ sụp đổ thành hạt electron khi bị quan sát hay đo đạc. Điều này chứng thực điều mà kinh điển Phật giáo từ lâu đã nói rằng vật là do tâm tạo.

Vậy còn những hiện tượng phi thường nào mà khoa học cổ điển không thể hiểu nổi ? Đó là những biểu diễn đặc dị công năng của các kỳ nhân như Trương Bảo Thắng và Hầu Hi Quý. Khoảng năm 1982, tại Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh, trước sự chứng kiến của một số lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc và các nhà khoa học, Trương Bảo Thắng đã dùng tâm lực lấy một quả táo ra khỏi chiếc thùng sắt đã bị hàn kín.

Như trường hợp của TRƯƠNG BẢO THẮNG – LẤY TRÁI TÁO RA KHỎI THÙNG SẮT BỊ HÀN KÍN

Còn Hầu Hi Quý năm 1989 đã dùng tâm lực di chuyển nguyên một bàn tiệc đến sảnh đường trước sự chứng kiến của Phó Chủ tịch nước Vương Chấn và Phó Thủ tướng Dư Thu Lý

Ngoài 9 vấn đề nêu trên, có thể còn nhiều vấn đề khác nữa không thể kể hết.

Kết luận

Đứng trước thế giới là đối diện với vô số vấn đề nghiêm trọng của thế giới. Những vấn đề này một phần có vẻ là thiên nhiên như thiên tai, động đất, bão tố, sóng thần. Nhưng phần lớn là do con người tự gây ra. Theo quan điểm Phật giáo, đó là cộng nghiệp của loài người. Thông tin về những vấn đề nêu trên đến với chúng ta hàng ngày qua các phương tiện truyền thông. Dù cho có những người không tiếp xúc với truyền thông, không xem truyền hình, không nghe radio, không sử dụng smartphone, không tiếp xúc internet thì những vấn đề đó có tác động không ? Tôi cho rằng vẫn có tác động, thông tin vẫn tác động đến mỗi cá nhân không nhất thiết thông qua ý thức, mà thông qua sóng vô hình phi vật chất, nhưng vẫn có ảnh hưởng to lớn trong a-lại-da thức và mạt-na thức. A-lại-da là kho chứa vô hình có đủ tất cả mọi thông tin của tất cả chúng sinh trong Tam giới. Dù cho ý thức không biết nhưng A-lại-da vẫn có thông tin và nó thấm vào Mạt-na, là thức chấp ngã của mỗi chúng sinh. Sở dĩ nó thấm vào được là vì tất cả các pháp trong Tam giới đều liên thông. Khoa học đã biết tới điều này qua hiện tượng toàn ảnh. Đặc trưng của hiện tượng này là nguyên lý Một là Tất cả, Tất cả là Một.

Nếu chúng ta cắt một toàn ảnh thành 1000 mảnh thì mỗi mảnh vẫn chứa đầy đủ thông tin của toàn ảnh, do đó 1/1000 (một phần ngàn) của toàn ảnh cũng chứa đủ thông tin để có thể khôi phục toàn ảnh. Thuyết vũ trụ nổ (Big Bang) là một luận chứng khoa học đầy thuyết phục chứng thực cho nhận thức này. Vũ trụ bắt đầu bằng một lượng tử có kích thước rất nhỏ gọi là kích thước Planck vì do Max Planck tìm ra, nó bằng 10-33 (mười lũy thừa âm 33) centimét. Sau đó nó bùng nổ thành vũ trụ mênh mông ngày nay có kích thước 93 tỷ quang niên. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi lượng tử đều chứa đủ thông tin của cả vũ trụ theo nguyên lý toàn ảnh. Vô lượng vô biên lượng tử của cả vũ trụ cũng chỉ là một lượng tử mà thôi. Điều này được thí nghiệm của tiến sĩ Maria Chekhova của Đại học Moscow thực hiện năm 2012, xác nhận. Bà có thể cho một lượng tử (một photon) xuất hiện đồng thời tại 100.000 vị trí khác nhau, số vị trí là không có hạn chế. Do đó một photon cũng là vô lượng photon.

Bộ não con người cũng là một toàn ảnh. Bác sĩ Karl H. Pribram (1919 – 2015) của đại học Standford và Georgetown đã nghiên cứu kỹ càng, xuất phát từ việc tìm hiểu não bộ lưu trữ trí nhớ bằng cách nào và ở đâu, đã xác nhận rằng não cũng là một toàn ảnh, thông tin mà bộ não tiếp nhận không phải được lưu trữ ở một vị trí nhất định mà nó là sóng đan xen khắp nơi trên vỏ đại não. Chỉ cần nắm bắt được sóng thông tin đó trên một nơ rôn thần kinh cũng đủ để khôi phục tất cả trí nhớ mà não đã tiếp thu.

Universe 5 – Bộ Não Người Là Toàn Ảnh – Phụ đề Việt ngữ Video
Chính vì sự tương ứng, tương tác giữa bộ não và vũ trụ nên mới có hiện tượng biểu kiến, thấy có không gian, thời gian và số lượng, trong khi thực tế là không có, tất cả chỉ là ảo, chỉ là tánh không “bản lai vô nhất vật”, “không có sinh lão bệnh tử cũng không có hết sinh lão bệnh tử” Đây là những điều mà người bình thường và kể cả những nhà khoa học tầm cỡ cũng không thể hiểu nổi, nếu họ cứ khăng khăng tin rằng thế giới vật chất là có thật, là khách quan.

Phật tử là người đi tìm sự giác ngộ, vậy đứng trước vô số thông tin của thế giới, dù ý thức hay không ý thức cũng vẫn bị tác động. Người không ý thức hoặc có ý thức mà không tỉnh ngộ sẽ bị tác động vô hình của nghiệp lực đưa đẩy, dẫn tới lo âu, sợ hãi, bất an và mê muội mãi mãi. Còn người có phát tâm tu hành, tin tưởng Phật giáo, thì đứng trước thế giới đầy bất trắc như vậy vẫn giữ bình tĩnh, vì biết thế giới chỉ là ảo, không cần phải quá lo sợ. Lỡ gặp thiên tai hay hoạn nạn thì chấp nhận đó là nghiệp của quá khứ, không thể tránh khỏi, nên vẫn an tâm. Người tu hành, ăn chay, giữ giới, không gây nghiệp ác thì nhất định sẽ dần dần chuyển đổi hoàn cảnh, sẽ ngày càng ít gặp thiên tai nhân họa. Thiên tai sẽ tránh mình, nhân họa cũng sẽ tránh mình. Tâm niệm sáng sủa và đức hạnh của mỗi cá nhân sẽ có tác động tới thiên nhiên và nhân loại, không nhất thiết bằng con đường ý thức, mà có thể bằng con đường vô thức nhưng vẫn có tác động mạnh mẽ, dựa trên nguyên lý mà Phật giáo đã tuyên thuyết từ mấy ngàn năm nay rằng “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Tâm an tịnh thì thế giới sẽ an tịnh và hòa bình. Thế giới an tịnh theo ý nghĩa tương đối là mọi hiện tượng đều là ảo nên chúng ta không cần phải quá lo sợ, tâm vẫn bình an. Thế giới an tịnh theo ý nghĩa tuyệt đối là, khi tâm của càng nhiều cá nhân thanh tịnh thì cảnh tượng của thế gian cũng sẽ càng nhiều cơ may chuyển đổi theo. Cũng là đạo lý đó, thế giới Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà thanh tịnh là vì tâm của chúng sinh cõi đó thanh tịnh.

Truyền Bình
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng

Nghiên cứu 15:55 17/04/2024

Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.

Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala

Nghiên cứu 10:10 05/04/2024

Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.

Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người

Nghiên cứu 18:00 02/04/2024

Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.

A lại da thức và Mạc na thức

Nghiên cứu 09:00 16/03/2024

Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.

Xem thêm