Tu tập Tứ niệm xứ để cân bằng cuộc sống (Phần 2)
Trong kinh Đại niệm xứ (Mahasatipatthana Sutta), Đức Phật dạy rằng: "Này các Tỳ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn, đó là Tứ niệm xứ.
Ứng dụng Bát chánh đạo để cân bằng cuộc sống (tiếp theo)
3- Tu tập Tuệ
Thiền sinh khởi sinh và phát triển hai yếu tố: chánh kiến và chánh tư duy.
- Chánh kiến (Sammā-ditthi):
+ Về Pháp học: Hiểu biết chuẩn xác Phật pháp về Tứ Thánh đế, Bát chánh đạo, luật nhân quả, mười hai nhân duyên, pháp tu thiền định và thiền tuệ...
+ Về Pháp hành: Chứng nghiệm Tứ Thánh đế, thực tánh pháp (vô thường, khổ não, vô ngã) và thành tựu các tầng Tuệ minh sát, nhất là Tuệ đạo, Tuệ quả.
- Chánh tư duy (Sammā-sankappa):
+ Về Pháp học: Suy nghiệm chân chính về ly dục (quán tưởng 32 thân phần bất tịnh, 10 loại tử thi), vô sản và bất hại ( xả tâm sân giận và sân ác tạm thờ bằng cách quán tưởng tam tướng hành thiền tha thứ và thiền tâm từ hay suy niệm về nhân quả nghiệp báo..).
+ Về Pháp hành: Chánh tư duy là chánh hướng tâm chuẩn xác về đối tượng thiền trong khi ngồi thiền, đi kinh hành hay thiền trong sinh hoạt hàng ngày.
- Ba lọai trí tuệ
Tuệ học cũng có 3 loại: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
+ Văn tuệ: Trí tuệ do học hỏi, nghiên cứu Phật pháp.
+ Tư tuệ: Trí tuệ do tư duy, suy xét, chiêm nghiệm và chắt lọc từ kiến thức văn tuệ.
+ Tu tuệ: Tuệ giác chứng nghiệm Tứ Thánh đế và thật tánh khổ não, vô thường, vô ngã của các pháp nhờ hành thiên Tứ niệm xứ, dựa trên văn tuệ và tư tuệ làm nền tảng.
Văn tuệ và tư tuệ được xem là chánh kiến và chánh tư duy ban đầu, tạm thời (có sai, có sửa) của phàm nhân, được điều chỉnh, bổ sung liên tục trong suốt quá trình tu tập. Nhờ đó, hành giả có kiến thức Phật pháp căn bản và nắm vững kỹ thuật hành thiền, làm tiêu chuẩn để tìm hiểu lựa chọn minh sư, Chánh pháp cũng như ứng dụng tu tập đễ thành tựu tuệ giác. Do đó, chánh kiến và chánh tư duy là hai yếu tố quan trọng đầu tiên quyết định trong Bát chánh đạo, giúp thiền sinh có kiến thức tu giới và định đúng đắn.
Tu tập Tứ niệm xứ để cân bằng cuộc sống (Phần 1)
Khi Giới và Định hoàn thiện, hành giả tu tập thiền Tứ niệm xứ nếu đủ duyên thì khởi sinh tuệ giác, trở thành bậc Thánh. Lúc này, vị ấy mới có chánh kiến và chánh tư duy thực sự (không còn sai sửa mà chỉ phát triển thêm), mới giữ gìn Giới luật (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) trọn vẹn, tự nhiên và tự động (vị Thánh Nhập lưu trở lên). Khi đó, vị Thánh ấy tiếp tục nỗ lực tu tập Bát Thánh đạo để hoàn thiện Giới-Định-Tuệ và đắc các Thánh quả cao hơn. Chu kỳ tu tập tuần hoàn này sẽ liên tục cho đến khi thiền sinh đắc Thánh quả A-la-hán, giải thoát rốt ráo.
- Thực hành Tứ niệm xứ để phát triển chánh trí tận diệt phiền não
Thiền sinh thực hành thiền Tứ niệm xứ để phát triển các tầng Tuệ minh sát, nhất là Tuệ đạo, Tuệ quả để tận diệt mọi phiền não. Với chánh niệm, định tâm và tỉnh giác, thiền sinh không thắc mắc, tò mò, phân tích, nhận xét, đánh giá... mà chỉ quan sát các hiện tượng thân tâm đang sinh diệt không ngừng ngay khoảnh khắc hiện tại một cách liên tục, bình tâm và sáng suốt để thấy rõ tam tướng (vô thường, khổ não, vô ngã) của thân tâm. Tuệ minh sát giúp thiền sinh tận diệt mọi phiến não ngủ ngầm và an hưởng hạnh phúc Niết bàn rốt ráo. (còn tiếp)
4. Phương pháp hành thiền Tứ niệm xứ để cân bằng cuộc sống
Trong kinh Đại niệm xứ (Mahasatipatthana Sutta), Đức Phật dạy rằng: "Này các Tỳ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn, đó là Tứ niệm xứ.
Như vậy, Tứ niệm xứ là pháp trực tiếp giúp con người cân bằng cuộc sống thường nhật vì có chức năng thanh tịnh ô nhiễm, tận diệt mọi phiền não, tham, sân, si, dẫn đến tâm an lạc tuyệt đối. Khi tu tập pháp thiền này một cách đúng đắn, thiền sinh có thể trải nghiệm qua 16 tầng Tuệ minh sát từ phàm đến Thánh. Trong 11 tầng Tuệ minh sát đầu tiên tính từ Tuệ phân biệt danh sắc đến Tuệ hành xã, thiền sinh tạm thời đoạn trừ các phiền não tham, sân, si. Chỉ khi nào thiền sinh đạt đến tầng tuệ thứ 14 là Tuệ đạo thì mới thật sự đoạn diệt các phiền não ấy vĩnh viễn, nhất là Tuệ đạo A la-hán có chức năng tận diệt tất cả mọi ác tâm ngủ ngầm thâm sâu trong vô thức. Khi đó, vị ấy trở thành bậc Thánh Vô học, giải thoát rốt ráo, hoàn toàn thoát ly khỏi mọi phiền não.
Để hành thiền hiệu quả, hành giả phải giữ gìn giới đức trong sạch và thu thúc lục căn, hạn chế tiếp xúc ngoại cảnh không cần thiết và tập thiền qua 3 tư thế: thiền tọa, thiền hành và thiền trong sinh hoạt hàng ngày.
- Thiền tọa
Hành giả ngồi tư thế hoa sen kiết già, chọn hơi thở làm đối tượng để tu tập định. Nhờ tính tấn, nỗ lực hướng tâm, giữ tâm quan sát hơi thở nên tâm an trú trên hơi thở và vọng niệm ít dần. Khi đó, chánh niệm, định tâm và tỉnh giác khởi sinh và ngày càng phát triển. Cứ tiếp tục thực hành như thế, tâm sẽ yên tĩnh, hơi thở sẽ trở nên thanh nhẹ cho đến khi không còn nửa. Thân và tâm đều cảm thấy nhẹ nhàng và chỉ có sự chú ý nhất tâm.
Khi ngôi nhà tâm đã bình an và tập trung như vậy, hành giả rời bỏ hơi thở và bắt đầu quan sát các hiện tượng thân và tâm nào đang sinh diệt ngay khoảnh khắc hiện tại để thấy rõ chúng đang thay đổi liên tục. Đây là tính vô thường, giả tạm, không thật của chúng. Chúng chuyển biến tự nhiên thuận theo nhân quả. Tất cả những hiện tượng này đều có tính thay đổi (vô thường), không thể kiểm soát theo ý mình được (khổ não) và không thật có tự tánh mà đều do nhân duyên mà sinh, mà diệt (vô ngã). Khi thấy được các đặc tính này, hành giả buông bỏ dần dần sự dính mắc vào thân tâm mình và bình tâm chấp nhận trước mọi thứ đang diễn ra theo quy luật của nó. Nhờ vậy hành giả cảm thấy bình an thật sự.
- Thiền hành
Để hành thiền hiệu quả, hành giả phải biết cách duy trì và phát triển ngôi nhà tâm qua việc biết kết hợp nhuần nhuyễn trong mọi tư thế: thiền tọa, thiền hành và thiền trong sinh hoạt hàng ngày. Ngôi nhà tâm được xây dựng vững chắc chủ yếu trong lúc ngồi thiền và cần được duy trì, phát triển liên tục, lâu dài. Thiền hành là pháp thiền chuyển tiếp từ trạng thái tịnh (ngồi thiền) sang trạng thái động (sinh hoạt) giúp nuôi dưỡng và tăng trưởng chánh niệm, định tâm và tỉnh giác trong tư thế đi và đứng.
Khi đó, hành giả hướng tâm cảm nhận các cảm giác và chuyển động trên từng trạng thái dở, bước, đạp của bước chân để thấy được sự sinh diệt của các cảm giác, chuyển động và các trạng thái tâm đang có mặt. Nhờ vậy, hành giả không những rèn luyện chánh niệm, định tâm và tỉnh giác trên từng bước chân mà còn thấy được đặc tính khổ não, vô thường và vô ngã của thân tâm này mà dần dần buông xả sự dính mắc vào chúng.
(còn tiếp).
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Nghiên cứu 09:45 03/11/2024Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...
Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo
Nghiên cứu 09:45 19/10/2024Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.
Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội
Nghiên cứu 09:30 06/10/2024Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.
Vài suy nghĩ về quyền động vật trong kinh, luật Phật giáo
Nghiên cứu 19:05 21/09/2024Cảnh giới trí tuệ của chư Phật đã thấy và biết như thật rằng “tất cả mọi loài chúng sanh đều có tính Phật”, do đó, họ cần phải được tôn trọng, bảo tồn và thương yêu bình đẳng. Nói cách khác, từ tuệ giác của Đức Phật, Ngài đã thừa nhận “quyền động vật” nói riêng và muôn loài chúng sanh nói chung.
Xem thêm