“Giữ đạo làm người, dựng nghiệp bền lâu”
Văn Lâm đất cổ, một dải phù sa bên bờ La Giang, thuở hồng hoang còn là chốn lau sậy, nước xoáy mịt mùng. Trải mấy trăm năm binh lửa và mưa nguồn gió bãi, làng vẫn giữ được hồn cốt: người trọng nghĩa, nhà giữ lễ, họ kết tình. Song, nơi sông sâu bãi rộng, đâu chỉ có gió hiền nước lặng - chuyện anh hùng dấy nghiệp, gia tộc hưng suy, oán thù và kết nghĩa… đều bắt nguồn từ đây. Từ ngày ấy, câu chuyện Hoa Lâm dấy nghiệp bắt đầu…
Hồi thứ nhất
Mây dồn Ngàn Sâu, sóng Trà Sơn dậy
"Đất hiểm sinh anh hùng, nước dữ nuôi chí lớn.
Lịch sử mở ra, Hoa Lâm xuất hiện."
Thuở đời Trần, khoảng niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1247), vùng hạ lưu sông La còn hoang sơ, lau sậy bạt ngàn, thú dữ còn in dấu chân trên bãi bồi. Ba thôn Kẻ Bượm, Kẻ Sim, Kẻ Lim hợp thành xã Hoa Lâm - nơi địa thế hiểm yếu, đất đai trũng sâu, mùa mưa nước dâng như biển, mùa nắng gió Lào hun cháy đồng xanh.
Tại xóm Thuỵ - gò đất cao bên bờ hữu ngạn, vài hộ dân đầu tiên quây quần dựng lều tranh. Trong đó có cụ Trần Viết Dị, tổ họ Trần, được xem là người khai cơ lập nghiệp đầu tiên. Cụ thường nói: “Đất này tuy dữ, nhưng giữ được thì thành đất quý”.
Rồi người từ muôn phương kéo về: kẻ lánh loạn binh đao, người tìm kế sinh nhai. Đất chật mà lòng người rộng, thôn xóm dần sum vầy.
Muốn biết người kế tiếp là ai, xin xem hồi sau.
Hồi thứ hai
Đất lành đón hiền sĩ, sóng lặng giữ chí nhân
"Loạn thay thế sự, anh hùng chọn nơi ẩn dật."
Đầu thế kỷ XVI, triều Lê sơ suy, Mạc Đăng Dung tiếm quyền. Ấy lúc Nguyễn Viết Thứ, người xứ Thanh, Tiến sĩ xuất thân, lòng không phục nhà Mạc, bèn từ quan, đem gia quyến về Hoa Lâm ẩn cư (năm 1521). Ông ở bên xóm Thuỵ, ngày ngày dạy chữ Nho, lấy sách Thánh hiền mà truyền cho con cháu.
Vài chục năm sau, thời loạn lạc, Nguyễn Doãn Thảo từ Giáp Đoài, Cổ Ngu đến thôn Hậu, lập trại, mở ruộng. Người Hoa Lâm truyền câu: "Thôn Hậu đông người, nhờ Doãn công mở đất."
Hoa Lâm dần thành tụ điểm của nhiều họ lớn: Nguyễn Duy, Phan, Võ Tá, Võ Viết… mỗi họ một nghề, cùng nhau dựng cơ nghiệp.
Muốn biết Hoa Lâm ra sao khi binh lửa lan tới, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi thứ ba
Nồi da nấu thịt, Hoa Lâm chọn ẩn thân
"Người khôn giữ thân, làng vững giữ nòi."
Giữa thời Lê Trung hưng, chiến sự Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, trai tráng khắp vùng bị bắt đi lính. Người Hoa Lâm nhớ lời tổ tiên: "Giữ được giống nòi hơn giữ chức quyền." Nhiều họ từ khắp nơi tìm đến đây ẩn náu, tránh gươm giáo.
Nhưng cũng có những trai tráng Văn Lâm theo lệnh triều đình, tòng quân dẹp loạn. Nguyễn Viết Thăng được phong Phó Tướng Thiếu uý, hộ tống Hoàng Phi Công chúa. Phan Kiêm Tài, Phan Sài đều được sắc phong “Tráng tiết tướng quân”. Phan Ngọc Trấn lập công lớn trong chính biến Cảnh Hưng, được phong “Phấn lực tướng quân”.
Máu đào Hoa Lâm đổ khắp chiến trường, nhưng tinh thần bất khuất vẫn rạng rỡ.
Muốn biết những chiến công ấy vang xa thế nào, xem hồi sau.

Hồi thứ tư
Tướng quân Hoa Lâm, cờ đỏ rạng quân doanh
"Một làng nhỏ, sinh bao tướng lớn."
Từ cuối thế kỷ XVII sang XVIII, các họ ở Hoa Lâm không chỉ dựng làng, mà còn hiến trai tráng cho quốc gia. Nguyễn Bá Thiều - người đời gọi “Can Thiên Hộ” - nổi danh võ nghệ cao cường. Nguyễn Duy Đính, Võ Châu (Như Bích), Nguyễn Đăng Thọ… mỗi người đều lưu tên trong sắc phong triều Lê.
Làng có câu ca:
"Gió La Giang thổi, cờ Hoa Lâm bay,
Quân đi muôn dặm, danh làng còn đây."
Nhưng rồi sóng lịch sử cuộn trào, nhà Lê tàn, nhà Nguyễn dựng. Vận hội mới lại mở ra…
Muốn biết Hoa Lâm bước vào thời Nguyễn ra sao, xem hồi sau.
Hồi thứ năm
Nhà Nguyễn dựng cơ, Hoa Lâm giữ thế
"Thời thay, người đổi, song khí phách còn nguyên."
Dưới triều Gia Long, Minh Mạng, nhiều trai tráng Hoa Lâm nhập ngũ. Trần Viết Nghê giữ chức Đội trưởng Long võ doanh. Võ Quát, Võ Cam đều thuộc Thiện võ vệ, lập công được ban cấp bằng. Nguyễn Duy Hội đặc biệt, trải ba triều (Tây Sơn, Gia Long, Minh Mạng) vẫn giữ uy danh, được quyền suất Thất đội.
Cùng thời, các họ Phan, Nguyễn Doãn, Nguyễn Bá, Nguyễn Ngọc… đều có người giữ chức Đội trưởng, Ngũ trưởng, Cửu phẩm. Làng nhỏ bên sông La, mà bảng vàng ghi tên chẳng kém chốn kinh kỳ.
Muốn biết đời sau con cháu giữ nghiệp thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi thứ sáu
Mưa phùn gió bắc, lửa nghĩa sẵn sàng
"Đất khó luyện người, gian nan sinh nghĩa."
Mùa đông, mưa phùn gió bấc, đồng ruộng lạnh căm, nhưng trai gái Hoa Lâm vẫn tập võ, luyện cung. Người xưa kể: Phan Thể (Can Loan) chỉ một đòn roi, đánh rơi thương đối thủ. Nguyễn Doãn Phấn giữ thành Nghệ An, lòng trung không đổi. Nguyễn Liễu được vua Thành Thái ban “Bát phẩm hưu dưỡng”, vẫn ngày ngày dạy cháu đọc sách, tập kiếm.
Khí phách ấy như mạch nước ngầm, chảy mãi qua bao thế hệ.
Muốn biết làng giữ đạo qua thời thế biến đổi ra sao, xem hồi sau.
Hồi thứ bảy
Đê La Giang chưa có, Đại Oa dậy sóng
"Trời thử lòng người, nước thử sức làng."
Trước năm 1936, chưa có đê La Giang, mỗi mùa mưa, nước từ Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Trà Sơn… đổ về, biến Hoa Lâm thành đáy “Đại Oa”. Nhà trôi, lúa mất, trâu bò chết rét. Nhưng người làng vẫn kiên cường, đắp bờ giữ ruộng, chống lụt như chống giặc.
Cụ già bảo: “Làng này đất dữ, người dữ hơn đất, mới trụ được đến nay”.
Muốn biết sau đê La Giang, Hoa Lâm đổi thay thế nào, xem hồi sau.
Hồi thứ tám
Đắp đê giữ đất, mở lối dựng làng
"Giữ đất là giữ người, giữ người là giữ hồn làng."
Năm 1936, đê La Giang dựng xong, nước lũ bị ngăn, đồng ruộng bớt ngập. Người Hoa Lâm mở thêm xóm, khai hoang bãi mới, dựng nhà gạch thay nhà tranh. Các dòng họ cùng góp công tu sửa đền làng, giữ lễ tế xuân, khuyến học khuyến tài.
Cảnh thanh bình trở lại, nhưng bóng chiến tranh hiện ở chân trời…
Muốn biết Hoa Lâm bước vào thời binh lửa mới ra sao, xem hồi sau.
Hồi thứ chín
Chiến loạn tràn về, Hoa Lâm khí tiết
"Một tấc không đi, một li không rời."
Thế kỷ XX, chiến tranh lại dội về. Trai làng nhập ngũ, kẻ ở nhà giữ lúa, nuôi quân. Đêm đêm, ánh lửa bên đình, tiếng mõ báo động, tiếng bước chân chạy về phía bờ đê. Các dòng họ cử người trông giữ đền, giữ gia phả, coi đó là giữ hồn làng.
Nhiều người con ngã xuống, nhưng tên tuổi được khắc vào bia đá bên đền Tiền Hậu.
Muốn biết ngày thái bình trở lại, Hoa Lâm thế nào, xem hồi sau.
Hồi thứ mười
Thái bình mở lại, nghiệp cũ dấy lên
"Uống nước nhớ nguồn, ngàn đời không quên."
Ngày hòa bình, con cháu các họ trở về, dựng lại nhà cửa, khơi lại lễ hội. Đền Tiền Hậu khói hương quanh năm, chuyện tổ tiên được kể lại trong đêm hội làng. Người trẻ học nghề mới, nhưng vẫn nhớ lời các bậc tiền nhân: “Giữ đạo làm người, dựng nghiệp bền lâu.”
Hoa Lâm hôm nay vẫn là vùng đất kiên cường bên bờ La Giang - nơi từng sản sinh bao võ tướng, quan lại, người nghĩa khí.
Câu chuyện Hoa Lâm dấy nghiệp xin khép lại ở đây, nhưng mạch sử vẫn chảy, như dòng La không ngừng ra biển lớn.
Người kể chuyện làng.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Câu chuyện linh ứng khi niệm Quan Thế Âm Bồ tát
Tư liệuKhi còn ở trong nước, mỗi khi đi học rồi sau đó đi làm, con đều đi xe đạp, lên xe cũng chân trái đạp xuống Nam mô, chân phải đạp xuống A, chân trái Di Đà, chân phải Phật, cứ vậy vừa đi xe đạp vừa niệm Phật cho tới trường hay sở làm.
Quả báo tà dâm không thể không kinh sợ
Tư liệuNgười xưa nói: Vạn điều ác dâm đứng đầu, và đó là đường chết, không thể đi. Điều đó đã nói rõ rằng phạm tội tà dâm sẽ bị báo ứng vô cùng nặng.
Lâm chung niệm Phật tự tại vãng sanh
Tư liệuÔng Quách Á Chương là nông dân ở làng Vương Giang, trấn Giác Mỹ, thành Phố Long Hải, năm nay 60 tuổi, vào ngày 26 tháng 8 nhuần âm Lịch, ông đã an nhàn vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ trong tiếng niệm Phật.
Thay đổi cả cuộc đời nhờ hết lòng tin kính Phật Pháp
Tư liệuKhi thắp hương cúng lạy Phật và Bồ-tát, tôi vừa khấn nguyện vừa chảy nước mắt vì tủi phận không may. Tôi thì thầm kể lể chuyện buồn của mình cho Bồ-tát Quán Thế Âm nghe như đã từng kể đủ thứ chuyện từ trước đến nay. Qua khói hương mờ mờ, tôi thấy đôi mắt tượng Bồ-tát như nhìn tôi với một nét dịu dàng, thương cảm.
Xem thêm














