Khảo cứu bài Chú Đại Bi
Đại Bi chú hay Thiên Nhãn Đại Bi Thần Chú cùng Vãng Sanh chú – một trong số mười bài chú (Thập Chú) được hàng Phật tử biết và thuộc hơn hết.
Đã lâu, chúng tôi cố công tìm kiếm nguyên văn hay ít ra nguyên âm của những bài chú ấy mà lối dịch phiên âm của kinh điển Hán văn không làm cho tôi thỏa mãn.
Phạn ngữ (sanscrit) là một thứ tiếng có nhiều âm. Thí dụ Bodhisatva. Tiếng này gồm có bốn âm: Bô – đi – sát – oa. Dịch âm theo chữ quốc ngữ như trên, chúng ta dễ thấy đó là một danh từ kép gồm bốn âm nối liền nhau bằng ba gạch ngắn. Hán văn đơn âm như chữ Việt nhưng không có gạch, cũng không có chữ hoa, thành ra khi phiên âm danh từ Phạn ngữ nói trên, dịch giả cứ viết bốn chữ rời rạc và như nhau, khiến độc giả khó nhận đó là một danh từ kép. Thêm vào đó sự không dùng các dấu chấm câu như phết, chấm phết, hai chấm... trong văn phạm Trung Hoa, còn làm cho người đọc ngừng sai hoặc ngừng ở chỗ không phải ngừng.
Ngoài những khuyết điểm trên, còn một trở ngại nữa, là chúng ta đọc chú tiếng Phạn mà người biết tiếng Phạn không hiểu được. Ấy vì sự phiêm âm từ Phạn ngữ ra Hán ngữ đã sai rồi. Nhưng giá người Tàu đọc, thì sự sai giọng có thể trong mười phần chỉ có đôi ba mà thôi. Đến người Việt chúng ta đọc, cái sai lên đến chín mười. Chữ samadhi chẳng hạn, được người Tàu phiên âm là Tam Ma Đề. Người Tàu, như người Quảng Đông, đọc: “sa ma ti” tương tự với “Samadhi”, còn người Việt chúng ta đọc ba chữ Hán trên thành “tam ma đề” thì thật là một biến âm gần như quái gở.
Vì các trại bẹ, sai lầm nói trên mà chúng tôi, từ mười năm nay, cố tìm cho biết đích xác coi các bài chú nguyên âm theo Phạn ngữ thế nào, chưa nói đến việc hiểu nghĩa. Nhưng chúng tôi không tiến được một bước nào và mối thất vọng của chúng tôi sẽ thành tuyệt vọng nếu trong chuyến đi thăm Phật giáo Tân Gia Ba, Mã Lai và Thái Lan vừa rồi, duyên may không đưa tôi tiếp xúc với Trung Hoa Phật Học Nghiên Cứu Xã tại Vọng Các.
Như người khó gặp vàng. Chúng tôi vô cùng sung sướng khi được ông Hội Trưởng cùa đoàn Phật giáo nói trên tặng mấy bản “Phạn âm đối chiếu Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Thần Chú”. Bản này rất qúy ở chỗ chẳng những có chữ Thái và chữ Hán đối chiếu ở trang trước mà còn có chữ Phạn phiên âm bằng chữ La Tinh ở sau.
Để chư qúy độc giả thấy sự sai chạy giữa bài chú Đại Bi chúng ta đang đọc hiện nay, về hai phương diện âm thanh và chấm câu, chúng tôi chép lại theo lối sắp đặt như sau. Trước tiên, chúng tôi chép bản chữ Phạn (phiêm âm theo chữ La Tinh) sau đó chúng tôi sẽ phiên âm ra Việt ngữ (bản La Tinh) để giúp những bạn không quen đọc thứ chữ này.
Bản Phạn Việt đối chiếu bài MAHAKARUNA DHARANI
(Đại Bi Thần Chú)
NAMO RATNATRAYAYA
Nam Mô Hắt Ra Đát Na Đá Ra Dạ Da
NAMO RRYA
Nam Mô A Lị Da
AVALOKITESHAVARAYA
Bà Lô Kiết Đế Thước Bát Ra Da
BODHISATTVAYA
Bồ Đề Tát Đóa Bà Da
MAHASATTVAYA
Ma Ha Tát Đóa Bà Da
MAHAKARUNIKAYA
Ma Ha Ca Lô Ni Ca Da
OM
Án (có người đọc Ám hay Úm)
SAVALAVATI
Tát Bàn Ra Phạt Duệ
SHUDDHA NA TASYA
Số Đát Na Đắt Tả (1)
NAMASKRITVA NIMAM ARYA
Nam Mô Tất Kiết Lật Đỏa Y Mông A Lị Da (2)
AVALOKITESHAVARA LANTABHA
Bà Lô Kiết Đế Thất Phật Ra Lăng Đà Bà (3)
NAMO NILAKANTHA
Nam Mô Na Ra Cẩn Trì
SRIMAHAPATASHAMI
Hê Rị Ma Ha Bàn Đá Sa Mế
SARVADVATASHUBHAM
Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng
ASHIYUM
A Thệ Dựng
SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGAMABHATE TU
Tát Bà Tát Đá Na Ma Bà Tát Đá Na Ma Bà Dà Ma Phạt Đạt Đậu (4)
TADYATHA
Đát Điệt Tha
OM AVALOKA
Án A Bà Lô Hê
LOKATE
Lô Ca Đế
KALATI
Ca Ra Đế
ISHIRI
Di Hê Rị
MAHABODHISATTVA
Ma Ha Bồ Đề Tát Đóa
SABHO SABHO
Tát Bà Tát Bà
MARA MARA
Ma Ra Ma Ra
MASHI MASHI RIDHAYU
Ma Hê Ma Hê Rị Đà Dựng
GURU GURU GHAMAIN
Cu Lô Cu Lô Kiết Mông
DHURU DHURU BHASHIYATI
Đồ Lô Đồ Lô Phạt Xà Da Đế
MAHABHASHIYATI
Ma Ha Phạt Xà Da Đế
DHARA DHARA
Đà La Đà La
DHIRINI
Địa Rị Ni
SHVARAYA
Thất Phật Ra Da
JALA JALA
Dá Ra Dá Ra
MAHABHAMARA
Mạ Mạ Phạt Ma Ra
MUDHILI
Mục Đế Lệ
EHYEHI
Y Hê Y Hê
SHINA SHINA
Thất Na Thất Na
ALA SHINBALASHARI
A Ra Sám Phật Ra Xá Lợi
BASHA BHASNIN
Phạt Sa Phạt Sâm
BHARASHAYA
Phật Ra Xá Da
HULU HULU PRAHULU HULU SHRI
Hô Lô Hô Lô Ma Ra Hô Lô Hê Rị
SAVALAVATI
Tát Bàn Ra Phạt Duệ
SHUDDHA NA TASYA
Số Đát Na Đắt Tả
NAMASKRITVA NIMAM ARYA
Nam Mô Tất Kiết Lật Đỏa Y Mông A Lị Da (2)
AVALOKITESHAVARA LANTABHA
Bà Lô Kiết Đế Thất Phật Ra Lăng Đà Bà (3)
NAMO NILAKANTHA
Nam Mô Na Ra Cẩn Trì
SRIMAHAPATASHAMI
Hê Rị Ma Ha Bàn Đá Sa Mế
SARVADVATASHUBHAM
Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng
ASHIYUM
A Thệ Dựng
SARVASATTVA NAMO PASATTVA NAMO BHAGAMABHATE TU
Tát Bà Tát Đá Na Ma Bà Tát Đá Na Ma Bà Dà Ma Phạt Đạt Đậu (4) TADYATHA
Đát Điệt Tha
OMAVALOKA
Án A Bà Lô Hê
LOKATE
Lô Ca Đế
KALATI
Ca Ra Đế
ISHIRI
Di Hê Rị
MAHABODHISATTVA
Ma Ha Bồ Đề Tát Đóa
SABHO SABHO
Tát Bà Tát Bà
MARA MARA
Ma Ra Ma Ra
MASHI MASHI RIDHAYU
Ma Hê Ma Hê Rị Đà Dựng
GURU GURU GHAMAIN
Cu Lô Cu Lô Kiết Mông
DHURU DHURU BHASHIYATI
Đồ Lô Đồ Lô Phạt Xà Da Đế
MAHABHASHIYATI
Ma Ha Phạt Xà Da Đế
DHARA DHATA
Đà La Đà La
DHIRINI
Địa Rị Ni
SHVARAYA
Thất Phật Ra Da
JALA JALA
Dá Ra Dá Ra
MAHABHAMARA
Mạ Mạ Phạt Ma Ra
MUDHILI
Mục Đế Lệ
EHYEHI
Y Hê Y Hê
SHINA SHINA
Thất Na Thất Na
ALASHINBALASHARI
A Ra Sám Phật Ra Xá Lợi
BASHA BHASNIN
Phạt Sa Phạt Sâm
BHARASHAYA
Phật Ra Xá Da
HULU HULU PRAHULU HULU SHRI
Hô Lô Hô Lô Ma Ra Hô Lô Hê Rị
SARA SARA
Ta La Ta La
SIRI SIRI
Tất Rị Tất Rị
SURU SURU
Tô Rô Tô Rô
BUDDHAYA BUDDHAYA
Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ
BODHAYA BODHAYA
Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ
MAITRIYE
Di Đế Rị Dạ
NILAKANSTA
Na Ra Cẩn Trì
TRISA RANABHAYA MANE SAHAV
Địa Rị Sắt Ni Na Ba Dạ Ma NaTa Bà Ha
SITAYA SVAHA
Tất Đà Dạ Ta Bà Ha
MAHA SITAYA SVAHA
Ma Ha Tất Đà Dạ Ta Bà Ha
SITAYAYESHVARAYA SVAHA
Tất Đà Du Nghệ Thất Bà Ra Da Ta Bà Ha
NILAKANTHI SVAHA
Na Ra Cẩn Trì Ta Bà Ha
PRANILA SVAHA
Ma Ra Na Ra Ta Bà Ha
SHRISIMHAMUKHAYA SVAHA
Tất Ra Tăng A Mục Khứ Da Ta Bà Ha
SARVAMAHASASTAYA SVAHA
Ta Bà Ma Ha A Tất Đà Dạ Ta Bà Ha
CHAKRA ASTAYA SVAHA
Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ Ta Bà Ha
PADMAKESHAYA SVAHA
Ba Đà Ma Kiết Tất Đà Dạ Ta Bà Ha
NILAKANTEPANTALAYA SVAHA
Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ Ta Bà Ha
MOPHOLISHANKARAYA SVAHA
Ma Bà Rị Thắng Kiết Ra Dạ Ta Bà Ha
NAMO RATNATRAYAYA
Nam Mô Hắt Ra Đát Na Dạ Da
NAMO ARYA AVALOKITESHVARAYA SVAHA
Nam Mô A Rị Da Bà Lô Kiết Đế Thước Bàn Ra Dạ Ta Bà Ha
OM SIDDHYANTU MANTRAPATAYA SVAHA
Án Tất Điện Đô Mạn Đà Ra Ta Bà Ha.
Giải thích những ghi chú trên:
(1) Bên Phạn ngữ có 3 chữ: Saddha Na Tasya, chữ đầu 2 âm, chữ giữa 1 âm, chữ chót 2 âm, vị chi 5 âm. Bên Hán văn có đủ 5 âm, nhưng không ghép được thành 3 tiếng mà rời rạc làm cho người đọc tưởng lầm là 5 âm khác nhau. Nếu là chữ Việt, chúng ta có thể tránh khuyết điểm này bằng cách dùng gạch nối liền như sau: Số-Đát Na Đát-Tả.
(2) Phạn văn chỉ có 3 chữ, nhưng bên Hán văn có tới 11 chữ vì không ghép được.
(3) Trong hàng này, cũng vậy: Phạn văn có 2 chữ còn bên Hán văn có đến 10 chữ cũng vì không ghép được. Về sau còn nhiều trường hợp như thế, đây xin cử vài thí dụ để lưu ý qúy độc giả mà thôi.
(4) Nghi Thức Tụng Niệm của Tổng Hội P.G thiếu 5 chữ Na Ma Bà – Tát – Đá (Namo Pasattava). Trong kinh điển chữ Hán có.
Bây giờ chúng tôi xin thử bắt từ chữ Phạn phiên âm ra Việt Ngữ:
MA-HA KU-RU-NA ĐA-RA-NI
Nghĩa: (ĐẠI) (BI) (THẦN CHÚ)
Na-mô Rát-na-tra-da-da
Na-mô A-ri-da A-hoa-lô-ki-tếs- hoa-ra-da Bô-đi-sát-toa-da Ma-ha Sát-toa-da Ma-ha Ka-ru-ni-ca-da.
Om! Sa-va-la-va-ti Su-Đa Na Ta-si-da.
Na-ma S-krit-toa Ni-măn A-ri-a A-hoa-lô-ki-tếs-hoa-ra
Lăn-ta-bờ-ha.
Nam-mô Ni-la-căn-tha S’ri-ma-ha-pa-ta-sa-mi Sạt-hoát- hoa-ta-su-băn A-si-dum Sạt-hoa-sát-toa.
Nam-mô Ba-sát-toa,
Nam-mô Ba-ga-ma-ba-tê Tu Tát-da-tha
Om! A-hoa-lo-ka Lô-Ka-tê Ka-la-ti I-si-ri Ma-ha Bô-đi-sát- toa Sa-bô Sa-bô Ma-ra Ma-ra Ma-si Ma-si Ri-đa-du Gu-ru Gu- ru Ga-ma-inh Đu-ru Đu-ru Ba si-da-ti Ma-ha Ba-si-da-ti Đa-ra Đa-ra Đi-ri-ni Soa-ra-da Ja-la Ja-la Ma-ha-Ba-ma-ra Mu - đi-li Ê-hiÊ-hi Si-na Si-na A-la-sinh-ba-la-sa-ri Ba-sa Ba-ninh, Ba- ra-sa-da Hu-lu Hu-lu B’ra-hu-hu Hu-lu Sờ-ri Sa-ra Sa-ra Si-ri Si-ri Su-ru Su-ru Bút-đa-da Bút-đa-da Bu-đa-da Bu-đa-da Mết- tri-da Ni-la-cẳn’s-ta Tri-sa Ra-na-ba-da Ma-nê Soa-ha.
Si-ta-da Soa-ha, Ma-ha Si-ta-da Soa-ha, Si-ta-da-dê Soa- ra-da Soa-ha, Ni-la-căng-thi Soa-ha, B’ra-ni-la Soa-ha,Sờ-ri- sim-ha-múc-kha-da Soa-ha, Sạt-hoa-ma-ha-sás-ta ya Soa-ha, Chắc-Cra ás-ta –da Soa-ha, Bát-ma-kết-ra-ya Soa-ha, Ni-la- căn-tê-băn-ta-la-da Soa-ha, Mô-phô-li-săn-ca-ra-da Soa-ha.
Na-mô Rát-na-tra-da-da.
Na-mô A-ri-a A-hoa-lô-ki-tếs-hoa-ra-da Soa-ha.
Om! Si-đi-dăn-tu Măn-tra-ba-ta-da Soa-ha.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa
Kiến thức 13:29 02/11/2024Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.
Nói về Tứ niệm xứ
Kiến thức 10:40 02/11/2024Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.
Xem thêm