Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ ba, 21/06/2022, 16:24 PM

Một cái nhìn về khủng hoảng cha mẹ – con cái từ Phật giáo

Đã có nhiều cách lý giải đến từ góc độ tâm lý giáo dục, khi phân tích những mâu thuẫn đang tồn tại trong mối quan hệ cha mẹ – con cái dưới phương diện áp lực, mong đợi, kỳ vọng từ phía cha mẹ đối với con cái. Nhưng do đâu lại có những áp lực, mong đợi và kỳ vọng đó?

Sự việc học sinh trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam nhảy lầu tự tử vừa qua là một sự kiện gây chấn động lớn trong dư luận, truyền thông và giáo dục. Tuy không phải là một sự kiện đầu tiên về vấn nạn khủng hoảng mối quan hệ cha mẹ – con cái, nhưng những hình ảnh chân thực từ đoạn phim bị lan truyền trên mạng xã hội là giọt nước làm tràn ly cảm xúc về vấn đề này. Ngay sau đó, truyền thông báo chí liên tiếp đưa tin về những sự kiện tương tự, thật khiến những người dù bàng quan đến đâu cũng phải chợt nghĩ: Do đâu mà nên nỗi?

Đã có nhiều cách lý giải đến từ góc độ tâm lý giáo dục, khi phân tích những mâu thuẫn đang tồn tại trong mối quan hệ cha mẹ – con cái dưới phương diện áp lực, mong đợi, kỳ vọng từ phía cha mẹ đối với con cái. Nhưng do đâu lại có những áp lực, mong đợi và kỳ vọng đó? Bài viết này nhằm cung cấp thêm một góc nhìn lý giải nguồn gốc những áp lực, mong đợi, kỳ vọng của cha mẹ đối với con cái, cũng như chiều ngược lại từ phương diện lý thuyết Phật giáo: Vọng tưởng.

Vọng tưởng là một khái niệm Phật học chỉ các ảo giác, ảo ảnh trong quá trình tu tập, hành thiền của hành giả. Với tầng nghĩa đó, tác giả không đề cập đến trong bài viết này. Tác giả sử dụng thuật ngữ Vọng tưởng với phương diện đại chúng hơn, tức là những “Ảo tưởng” đang có, đang được xây dựng trong mối quan hệ cha mẹ – con; là cái đã tác động đến hành vi của 2 đối tượng này trong đời sống.

1. NGÔN THUYẾT, SỞ THUYẾT SỰ, THÀNH VỌNG TƯỞNG

Trong kinh Lăng Già, Như Lai đã nói với Bồ tát Đại Huệ: “Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh”. Do vậy, có thể hiểu trong ngữ cảnh đại chúng thì Ngôn thuyết là chỉ cho các kiểu, loại nói năng của người đời về đứa trẻ đối với cha mẹ lẫn về cha mẹ đối với con cái. Đó có thể là những lời nhận định theo hướng chê bai và hướng khen ngợi cho chính đứa con của cha mẹ hay chiều ngược lại.

Thành công hay thất bại, giàu có hay nghèo khổ dưới nhãn quan Phật giáo đều chẳng có giá trị thực trong đời sống theo lối Phật giáo. Vì nó góp phần trong sự chấp tướng của con người, góp phần vào vòng luân hồi sinh tử cái mà Phật giáo luôn chủ trương xóa bỏ trong chủ thuyết của mình.

Thành công hay thất bại, giàu có hay nghèo khổ dưới nhãn quan Phật giáo đều chẳng có giá trị thực trong đời sống theo lối Phật giáo. Vì nó góp phần trong sự chấp tướng của con người, góp phần vào vòng luân hồi sinh tử cái mà Phật giáo luôn chủ trương xóa bỏ trong chủ thuyết của mình.

Tuổi trẻ, niềm tin và ước vọng

Trong xã hội, ta sẽ gặp những kiểu như: “Con anh chị thế mà giỏi ghê nếu bồi dưỡng tốt thì nó sẽ thành người tài giúp ích cho xã hội”, “Đứa trẻ này thật có năng khiếu đàn hát, tương lai nó sẽ thành ca sĩ/nhạc sĩ” hay “Cháu nhà rất nghịch/không tập trung/không nghe lời người lớn/giáo viên, sau này chắc chẳng được tích sự gì” hay “Cha mẹ đánh con như thế là không thương con/thương con”, hoặc “ Cha mẹ nuông chiều con là thương con/không thương con” và vô vàn những kiểu chê bai lẫn khen ngợi khác.

Từ những ngôn thuyết này, cha mẹ lẫn con cái khi chấp vào chúng thì đặt luôn niềm tin rằng con cái hay cha mẹ mình đều có đặc tính như ngôn thuyết mô tả. Nhưng những lời suy luận mang tính võ đoán ấy lại tác động đến cha mẹ để tạo ra những vọng tưởng định hình nên đứa trẻ là kiểu người thế này hoặc thế khác. Kể cả đứa trẻ cũng tự vọng tưởng về bản thân mình sẽ là kiểu người tốt hay xấu theo cách mà người khác thường nói về chúng. Rồi từ đó, cha mẹ và con trẻ có các tác động lẫn nhau dẫn đến mâu thuẫn, dựa trên thái độ được xác lập bởi những niềm tin hình thành từ những ngôn thuyết ấy khiến cả hai bên đều không hiểu được về nhau.

Khi những ngôn thuyết trở nên phổ biến, được chấp nhận rộng rãi hoặc được trừu tượng hóa thành những lý thuyết giáo dục thì Sở thuyết sự hình thành tương ứng Sở thuyết sự vọng tưởng và Thành vọng tưởng thành hình. Sở thuyết sự, là chỉ những gì được phát sinh từ Thánh trí như lời kinh, tiếng kệ, pháp ngữ… Kinh nói: “Nói ra là chỗ Thánh trí biết, y đó mà sinh ngôn thuyết vọng tưởng, nên gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng” (kinh Lăng Già). Trong Phật giáo, những lời kinh, tiếng kệ, giáo pháp đều có thể là thứ sinh ra vọng tưởng. Trong đời sống, trong giáo dục thì những lý thuyết giáo dục hiện tồn là sở thuyết sự sinh ra sự vọng tưởng cho cả cha mẹ lẫn đứa trẻ. Còn Thành vọng tưởng là khi sở thuyết sự ấy trở thành một lý thuyết tất định và tác động tạo ra vọng tưởng đối với cha mẹ-con cái. Kinh nói: “Tưởng ngã và sở tạo thành luận quyết định, ấy gọi là Thành vọng tưởng” (kinh Lăng Già).

Đã có nhiều cách lý giải đến từ góc độ tâm lý giáo dục, khi phân tích những mâu thuẫn đang tồn tại trong mối quan hệ cha mẹ – con cái dưới phương diện áp lực, mong đợi, kỳ vọng từ phía cha mẹ đối với con cái. Nhưng do đâu lại có những áp lực, mong đợi và kỳ vọng đó?

Đã có nhiều cách lý giải đến từ góc độ tâm lý giáo dục, khi phân tích những mâu thuẫn đang tồn tại trong mối quan hệ cha mẹ – con cái dưới phương diện áp lực, mong đợi, kỳ vọng từ phía cha mẹ đối với con cái. Nhưng do đâu lại có những áp lực, mong đợi và kỳ vọng đó?

Xã hội hiện đại ngày nay, cả cha mẹ và đứa trẻ được tiếp cận hàng ngàn lý thuyết giáo dục khác nhau. Nào là thuyết đa trí thông minh, nào là phương pháp sinh trắc học dấu vân tay để tìm ra năng khiếu, xu hướng bẩm sinh của đứa trẻ, nào là những quan điểm giáo dục khơi mở tư duy sáng tạo, logic hoặc bất kỳ lý thuyết giáo dục nào xuất phát từ tiền đề “mọi đứa trẻ là một thiên tài” đều góp phần tạo ra những vọng tưởng cho cha mẹ và đứa trẻ. Bởi lẽ học thuyết nào cũng dựa trên những niềm tin cá nhân lẫn những giả định/tiền giả định của người lập thuyết và thuyết ấy cũng chỉ hợp lý trong những điều kiện nhất định của nó.

Hệ quả của nó là cha mẹ đổ xô đưa con đi thực hiện đủ loại bài kiểm tra để xem con mình có là bậc xuất chúng thượng thừa hay không. Mặt khác, cha mẹ cũng đổ xô dẫn con đi tham gia bất cứ mọi loại hình nghệ thuật từ đàn hát đến hội họa, điêu khắc, cả người mẫu, diễn viên, dẫn chương trình với mong đợi một tương lai tươi sáng rực rỡ cho con mình. Để rồi khi kết quả như mong đợi thì hồ hởi, vui mừng, bồi dưỡng đứa trẻ chuyên biệt theo kết quả đó; hoặc kết quả không như mong đợi thì buồn rầu, thất vọng và đổ sự ưu tư ấy lên cuộc đời con trẻ. Tức là, dù với kết quả nào thì con trẻ đều phải nhận một áp lực từ cha mẹ lên chúng, rằng chúng phải là một kiểu gì đó khác với những đứa trẻ thông thường theo sự tưởng tượng của cha mẹ và cả đem lại cho đứa trẻ những ám thị kiểu “thiên tài” lẫn “bất tài” cho chính chúng.

Không phủ nhận rằng, chủ thuyết cho rằng “mọi đứa trẻ là một thiên tài” thực sự mang đến một tâm lý tích cực cho cha mẹ trong việc giáo dục con cái, và cả những cơ hội cho đứa trẻ phát huy năng lực bẩm sinh của nó, nhưng bên cạnh đó mang đến sự vọng tưởng cho cả 2 đối tượng rồi từ đó hình thành áp lực cho cả hai lúc nào không biết. Chủ thuyết cho rằng “mọi đứa trẻ là một thiên tài” là một sự đánh tráo kết quả thành tiên đề khi thiên tài là một kết quả được hình thành bởi sự nỗ lực, sự đấu tranh, sự học tập không ngừng cho năng lực của mình, nay đã trở thành một yếu tố “thiên mệnh” mà ai cũng có ngay từ bắt đầu. Cái mà con người ai cũng có ngay từ bắt đầu là một loại năng lực “giải quyết vấn đề” chứ không phải một dạng thiên tài xuất chúng nào đó như chủ thuyết này xây dựng. Nói cách khác, việc trở thành một thiên tài là một vấn đề mà con trẻ cần phải chứng minh trong quá trình sống của chúng chứ không phải là một đặc tính được ban sẵn ngay từ thuở chào đời.

Ý tưởng chủ đạo mà chủ thuyết này đã xây dựng nên rằng: “ Nếu bạn dạy con cá cách leo cây thì cả đời con cá nghĩ nó là một loại bất tài” hay “Nếu bạn cho đại bàng sống chung với bầy gà thì con đại bàng cả đời sẽ nghĩ nó là một con gà to lớn”. Chủ thuyết này quên rằng nếu một con cá không tự nhận ra nó cần phải sống trong nước chứ không phải cái cây, hay một con đại bàng không tự nhận ra nó có thể bay, thì con cá đó, con đại bàng đó xứng đáng là một kẻ bất tài như vậy. Lối giáo dục nhân danh việc hướng đến nhân bản là hướng dẫn cách con người tự tìm ra cái bản thể tạo ra họ, như cách Phật giáo hướng dẫn người tu hành tự tìm ra con đường tu của mình, chứ không phải tạo ra những đường lối là sự vọng tưởng khiến cha mẹ lẫn con cái loay hoay trong thứ không tạo ra chính họ.

2. TƯỚNG VỌNG TƯỞNG, TỰ TƯỚNG VỌNG TƯỞNG VÀ NHÂN VỌNG TƯỞNG 

Tướng vọng tưởng trong ngữ cảnh Phật học là khái niệm chỉ việc vọng tưởng dựa trên tướng của các pháp mà thành. Ví như việc thấy đất thì tưởng cứng, thấy lửa thì tưởng nóng, nghe me thì tưởng chua. Với con người thì khi nhìn cái “hình tướng” mà tâm khởi lên các thứ tưởng có liên quan, thì những liên tưởng đó gọi là Tướng vọng tưởng. Việc tưởng rằng đất có tính cứng, lửa có tính nóng là do từng biết đất có tính cứng, lửa có tính nóng rồi lưu giữ những thấy biết đó trong tâm trí. Để rồi khi đối diện với hình tướng tương tự thì vọng tưởng theo đó sinh khởi.

Khủng hoảng trong mối quan hệ cha mẹ-con cái ngày nay rõ ràng có nguyên nhân trực tiếp là từ những áp lực vô hình đang đè nặng lên vai cha mẹ, con cái từ xã hội và cả đè nặng lên vai con cái từ cha mẹ lẫn lên vai cha mẹ từ con cái.

Khủng hoảng trong mối quan hệ cha mẹ-con cái ngày nay rõ ràng có nguyên nhân trực tiếp là từ những áp lực vô hình đang đè nặng lên vai cha mẹ, con cái từ xã hội và cả đè nặng lên vai con cái từ cha mẹ lẫn lên vai cha mẹ từ con cái.

Chuyện rằng, Khổng Tử, một lần dẫn học trò du thuyết sang Tề, có Nhan Hồi và Tử Lộ đi theo. Cả hai đều là học trò giỏi của Khổng Tử. Trong thời Đông Chu, dân chúng lầm than đói khổ, thầy trò Khổng Tử cũng không thoát được cảnh đó. May thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử phân Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm, rồi cho cơm vào miệng. Chứng kiến cảnh ấy, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời than: “Chao ôi! Học trò giỏi của ta mà lại đi ăn vụng…”. Chuyện rằng, Nhan Hồi không ăn vụng. Chỉ là vì khi giở nắp xem cơm, một cơn gió thổi qua, bụi trần rơi xuống làm bẩn lớp cơm trên. Ông quyết định ăn phần cơm bẩn đó để thầy và các bạn không phải mất thêm phần cơm cho mình. Khổng Tử, do huân tập cái thấy bình thường của người đời, thấy tướng như thế và cho là đang như thế, nên kết luận Nhan Hồi ăn vụng. Đó là một kiểu Tướng vọng tưởng.

Sở dĩ có Tướng vọng tưởng một phần là do Ngôn thuyết, Sở thuyết sự, Thành vọng tưởng và Nhân vọng tưởng mà ra. Những điều mà nhiều người nói, xã hội quy ước đã ăn sâu trong tàng thức để rồi khi gặp hiện tượng, con người lại kết nối với những quy ước đó. Ở trên có đề cập, trong xã hội, ta sẽ gặp những kiểu như: “Con anh chị thế mà giỏi ghê nếu bồi dưỡng tốt thì nó sẽ thành người tài giúp ích cho xã hội”, “Đứa trẻ này thật có năng khiếu đàn hát, tương lai nó sẽ thành ca sĩ/nhạc sĩ” hay “ Cháu nhà rất nghịch/không tập trung/không nghe lời người lớn/giáo viên, sau này chắc chẳng được tích sự gì”. Chúng ta đều hiểu rằng, việc một đứa trẻ có năng khiếu đàn hát thì cũng không có gì đảm bảo đứa trẻ sẽ trở thành một người thành công trong giới nghệ thuật, cũng như một đứa trẻ có ngang bướng, ngỗ nghịch cũng chẳng có gì đảm bảo rằng đứa trẻ sẽ trở thành một kẻ bất hảo trong xã hội. Hay không phải cha mẹ dùng đòn roi với con cái hoặc nuông chiều thì cha mẹ đang thương hay không thương con cái mình.

Những hình ảnh về quá trình như thế được xây nên bởi một lý nhân duyên đậm màu dân gian của xã hội Á Đông, hoàn toàn xa lạ với lý nhân duyên của Phật giáo, được hình thành bằng niềm tin về nguyên lý một chiều: Khởi đầu tốt tương ứng kết quả tốt, khởi đầu xấu tương ứng kết quả xấu: Đó là Nhân vọng tưởng.

Một phương diện khác của Tướng vọng tưởng là Tự tướng vọng tưởng. Kinh nói: “Gìn giữ tự tánh này như thế chẳng đổi khác, gọi là Tự tánh vọng tưởng” (kinh Lăng Già). Đó là quy chiếu một “bản tướng/bản tánh/bản chất” duy nhất vào một đối tượng. Ví dụ: Biết đá, đất thì cứng, biết nước thì ướt, lỏng thì nghĩ rằng đất chỉ có cứng, nước chỉ có ướt mà thôi. Trong xã hội, có những kiểu tự tướng vọng tưởng như thế. Ví dụ: Tin rằng làm bác sĩ, tiến sĩ là cao quý, làm công nhân, lao động thủ công là thấp hèn. Trong mối quan hệ cha mẹ-con cái chính là việc cha mẹ tin rằng con cái chỉ có một loại thiên bẩm mà thành, nên khi con trẻ muốn thay đổi con người nó thì cha mẹ ưu tư, buồn phiền, có khi ngăn cấm. Cũng như con cái luôn mặc nhiên nghĩ rằng cha mẹ chỉ có nghĩa vụ thương yêu, ủng hộ hết lòng mà quên đi chức năng phản biện, “xã hội hóa” của cha mẹ khi ngăn cấm, “bàn ra” các mong ước của mình. Để rồi khi cha mẹ tỏ ra không ủng hộ mình thì sinh ra các hành vi tổn hại đến cha mẹ lẫn chính mình. Tương tự như thế, con cái khi thấy cha mẹ luôn không ủng hộ mình thì mặc nhiên tin rằng cha mẹ chỉ có không tin tưởng mình, không yêu thương mình mà xa cách, đứt kết nối với cha mẹ mà không nhìn ra những sự lo lắng có tính quan tâm, yêu thương từ phía cha mẹ đang có.

3. LỢI VỌNG TƯỞNG 

Trong ngữ cảnh đại chúng, vọng tưởng này do tài lợi mà xuất hiện, nên gọi là Lợi vọng tưởng. Tài lợi không phải đơn giản do tiền bạc, phúc lợi mà là những mong đợi với sự thành công, sự thành đạt mà thành. Cha mẹ nào cũng đều mong muốn bản thân và đứa con của mình sẽ thành công, có vị thế trong xã hội, hoặc chí ít cũng có một cuộc sống “ổn định”, có một gia đình êm ấm, có một cuộc sống đủ ăn đủ mặc, v.v.. Những mong ước ấy quả thật không sai. Nó xuất phát từ tình cảm phụ mẫu tử thiêng liêng, những ước vọng, nhu cầu chính đáng của con người. Nhưng nó là những vọng tưởng để tạo ra thứ áp lực đè nặng lên vai của cả hai đối tượng.

Thành công hay thất bại, giàu có hay nghèo khổ dưới nhãn quan Phật giáo đều chẳng có giá trị thực trong đời sống theo lối Phật giáo. Vì nó nằm trong sự chấp tướng của con người, lôi kéo con người vào vòng luân hồi sinh tử, cái mà Phật giáo luôn chủ trương xóa bỏ trong chủ thuyết của mình. Do đó, cha mẹ không thể thấy lợi mà theo, thấy không lợi thì chối bỏ. Theo quan điểm của Phật giáo thì lợi hay không lợi đều không có giá trị như nhau cả.

46-1

4. TƯƠNG TỤC VỌNG TƯỞNG

Tương tục là một khái niệm Phật học để chỉ về sự nối kết thành một quá trình liên tục, trước sau không có gián đoạn, thường được chỉ về Pháp. Tương tục do đó cũng là một nguyên lý của Pháp, để Pháp hình thành nên lý nhân duyên liên tục của nó. Tuy nhiên, khi người tu vướng chấp vào lý tương tục này thì cũng là sự vọng tưởng. Trong ngữ cảnh đại chúng, con người cũng vướng vào sự vọng tưởng về tính tương tục như thế.

Ví như cha mẹ tin rằng con cái cần phải nối nghiệp của gia đình. Nhà làm nghề giáo thì các đời sau cũng là nhà giáo, nhà làm chính trị thì con cái cũng phải làm chính trị như vậy. Người đời gọi đó là nối tục/nối nghiệp gia đình. Đó là một cái lý tương tục có tính hợp lý của nó. Vì mọi sự khi khởi sinh mà có nền tảng, truyền thống thì bao giờ cũng dễ dàng cả. Nhưng khi cha mẹ hay con cái chấp vào cái tương tục ấy thì chính là cái vọng tưởng để sinh ra cái áp lực cho cả hai. Xét đến cùng, chẳng có một cơ sở nào để bắt thế hệ sau gồng gánh cái truyền thống của cả thế hệ trước cả.

Mặt khác, cái tương tục ăn sâu trong xã hội chính là nghĩa vụ, thiên chức của cha mẹ đối với con cái và cả con cái đối với cha mẹ cả. Cha mẹ thường lấy lý do rằng “nó là con tôi/là thế hệ sau của tôi/là sự nối dài của tôi” để can thiệp, để giáo dục, để định hướng, để tác động đến quyết định của con cái, mà không cần quan tâm đến tính “bản thể” của đứa con. Cũng theo chiều ngược lại, đứa con vẫn chịu áp lực rằng “tôi là con của cha mẹ tôi/là sự nối tiếp cha mẹ tôi” để phải nghe lời, để phải chịu đựng các giáo điều (dogma) mà cha mẹ đang áp đặt lên bản thân mình. Những sự tương tục thế này, là kết quả của một truyền thống Nho giáo Á Đông, nơi cha mẹ lẫn con cái có sự ràng buộc trách nhiệm qua lại, bất chấp sự “tự ý thức” về trách nhiệm có hay không giữa cha mẹ và con cái. Kể từ đó, cha mẹ tự ban cho mình cái quyền bắt con cái phải theo ý mình và con cái cũng cho mình nghĩa vụ phải nghe theo lời cha mẹ mình.

Lời kết

Khủng hoảng trong mối quan hệ cha mẹ-con cái ngày nay rõ ràng có nguyên nhân trực tiếp là từ những áp lực vô hình đang đè nặng lên vai cha mẹ, con cái từ xã hội và cả đè nặng lên vai con cái từ cha mẹ lẫn lên vai cha mẹ từ con cái. Những áp lực này lại có nguyên nhân sâu xa từ những vọng tưởng đang có trong mối quan hệ tam giác Xã hội-Cha mẹ-Con cái theo góc nhìn Phật giáo như đã phân tích. Người đời bàn nhiều về các phương pháp giải bỏ những áp lực này từ phương diện giáo dục về một ý thức “không có áp lực” thì Phật giáo đang đặt vấn đề tương tự là xóa bỏ những vọng tưởng đã nêu ở trên.

Xóa bỏ những vọng tưởng chưa bao giờ là dễ dàng. Vì như đã phân tích, nó có căn nguyên gốc rễ từ những Sở thuyết sự, từ những Ngôn thuyết, từ những Tương tục đã ăn sâu vào tâm trí con người. Quán về tính Không của Phật giáo xem chừng là một phương pháp khả dĩ triệt để. Tuy nhiên, cần tự nhắc mình, tự răn mình mỗi ngày, mỗi thời, mỗi lúc như là sự phòng giác, canh chừng một kẻ phá bĩnh đời sống của mình thì mới có thể từng bước đoạn diệt được những vọng tưởng đợi chờ khởi sinh trong tâm tưởng mình.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Nhờ Bồ tát Quan Thế Âm gia hộ, bé gái bị dị tật bẩm sinh được lành bệnh

Phật giáo và người trẻ 12:55 18/04/2024

Tôi lập gia đình năm 25 tuổi. Cuối năm, tôi sinh được một bé gái. Năm năm sau, vợ chồng tôi quyết định sinh đứa thứ hai. Chồng tôi rất thích đứa con thứ hai này là con trai, nhưng rủi thay lần mang thai này tôi lại sinh ba bé gái.

Phật pháp nhiệm mầu: Một cầu thủ bóng đá nổi tiếng thế phát, hành thiền

Phật giáo và người trẻ 09:46 17/04/2024

“Tôi đã tự hỏi, ý nghĩa và mục đích của cuộc đời mình là gì...” - Kevin Lidin trải lòng.

Diễn viên Quỳnh Lam sẽ kinh doanh quán chay

Phật giáo và người trẻ 11:33 13/04/2024

"Nữ hoàng phim xưa" Quỳnh Lam vừa chia sẻ với báo giới kế hoạch tương lai - sẽ kinh doanh quán chay - khi có tin chia tay bạn trai sau 13 năm gắn bó.

Phật pháp nhiệm mầu: Giác ngộ chỉ trong tích tắc

Phật giáo và người trẻ 19:43 12/04/2024

Melania Babaian đến từ đất nước Armenia xinh đẹp. Nhưng chúng tôi hay gọi tắt tên cô là Mela thân thương mỗi khi trò chuyện.

Xem thêm