Mười hai loại nghiệp Đức Phật thường dùng để giải thích về nghiệp

Dưới đây là phần tóm tắt của chúng tôi về mười hai loại nghiệp mà Đức Phật thường dùng để giải thích về nghiệp.

Trước tiên chúng ta bàn về những vận hành của nghiệp theo “thời gian cho quả”, nghĩa là theo cách khi nào thì nghiệp sẽ cho quả. Phần này chúng ta bàn đến bốn loại:

1. Hiện báo nghiệp (diṭṭha-dhamma-vedanīya-kamma): nghiệp có hiệu lực hay cho quả trong cùng kiếp sống của cá nhân ấy (atta-bhāva).

2. Sanh báo nghiệp (upapajja-vedanīya-kamma): nghiệp có hiệu lực hay cho quả trong kiếp sống kế.

3. Hậu báo nghiệp (apar-āpariya-vedanīya-kamma): nghiệp có hiệu lực hay cho quả trong một kiếp nào đó sau kiếp kế (từ kiếp thứ hai đổ đi).

4. Vô hiệu nghiệp (ahosi-kamma): nghiệp không còn hiệu lực. Nó chính là hiện báo nghiệp hay sanh báo nghiệp được xem như không còn tồn tại nữa, hay là nghiệp chỉ theo tên gọi.

Sau khi một người Bát Niết Bàn (Parinibbāna), tất cả nghiệp (hiện báo-, sanh báo-, và hậu báo nghiệp) đều trở thành vô hiệu, bởi vì (sau sự kiện này) họ không còn tái sanh lại nữa.

Nơi trú của nghiệp lực

Mười hai loại nghiệp Đức Phật thường dùng để giải thích về nghiệp 1
Ảnh minh họa. 

Kế tiếp chúng ta bàn về những vận hành của nghiệp theo “thứ tự cho quả”, nghĩa là theo cách nghiệp nào sẽ có hiệu lực hay cho quả trước. Ở đây, chúng ta cũng bàn về bốn loại nghiệp:

1. Trọng nghiệp (garuka-kamma): có sáu trọng nghiệp bất thiện: giết mẹ, giết cha, giết một bậc Thánh A-la-hán, với ác ý làm cho một vị Phật chảy máu, phá hoà hợp Tăng, cố chấp một tà kiến (phủ nhận những vận hành của nghiệp).

Những trọng nghiệp này chắc chắn sẽ đưa đến tái sanh trong địa ngục ngay kiếp sau. Đó là lý do vì sao chúng cũng được gọi là “vô gián nghiệp”.

Về trọng nghiệp thiện có tám: bốn thiền sắc giới và bốn thiền vô sắc giới. Nếu các thiền này được duy trì cho đến lúc chết, chúng chắc chắn sẽ đưa đến tái sanh trong Phạm Thiên giới.

2. Thường nghiệp (āciṇṇa-kamma): đó là những bất thiện nghiệp hoặc thiện nghiệp được làm thành thói quen, được làm thường xuyên và liên tục. Chẳng hạn, một người đồ tể giết các chúng sanh thành thói quen, và một tên trộm ăn cắp thành thói quen, một người hộ Tăng đặt bát thành thói quen, và một người hành thiền chỉ và thiền minh sát thành thói quen.

3. Cận tử nghiệp (āsanna-kamma): đó là một nghiệp bất thường mà vào lúc chết được nhớ lại một cách sinh động. Chẳng hạn, một người giới đức bất chợt có thể nhớ đến một hành động bất thiện nào đó một cách sinh động vào lúc chết, và một người không giới đức bất chợt có thể nhớ đến một hành động thiện bất thường nào đó một cách sinh động vào lúc chết.

4. Tích luỹ nghiệp (katattā-kamma): đó là bất kỳ nghiệp nào khác đã được hoàn thành, như mười bất thiện nghiệp đạo (sát sanh, trộm cắp, tà dâm…), hay mười thiện nghiệp đạo (tránh xa sự sát sanh, trộm cắp, tà dâm…).

Nghiệp lực từ đâu sinh ra?

Mười hai loại nghiệp Đức Phật thường dùng để giải thích về nghiệp 2
Ảnh minh họa. 

Cuối cùng, chúng ta bàn đến những vận hành của nghiệp theo “nhiệm vụ của quả”, nghĩa là theo cách nghiệp làm nhiệm vụ. Và cũng có bốn loại:

1. Sanh nghiệp (janaka-kamma): đó là bất thiện nghiệp tạo ra danh – sắc của một súc sanh, ngạ quỷ, hay một chúng sanh trong địa ngục vào lúc tái sanh, và trong thời bình nhật của chúng sanh ấy; hay thiện nghiệp tạo ra danh-sắc của một con người, một chư thiên vào lúc tái sanh và thời bình nhật của chúng sanh ấy.

2. Trì nghiệp (upatthambhaka kamma): đó là bất thiện nghiệp hay thiện nghiệp củng cố cho một sanh nghiệp.

Chẳng hạn, thiện nghiệp cho một chúng sanh tái sanh làm người có thể được củng cố để người đó được khoẻ mạnh, và sống một cuộc sống không có khó nhọc. Cũng vậy, bất thiện nghiệp đã cho một chúng sanh tái sanh như một con vật có thể được củng cố thêm để con vật ấy bệnh hoạn, và sống một cuộc sống khó khăn.

3. Chướng nghiệp (upapīḷaka kamma): đó là một bất thiện nghiệp hay thiện nghiệp làm thất bại và cản trở quả của nghiệp khác. Chẳng hạn, thiện nghiệp cho một chúng sanh tái sanh làm người có thể bị chướng nghiệp làm mất tác dụng để người ấy phải gặp nhiều vấn đề với sức khoẻ, tài sản, hoặc gia đình và bè bạn…

Đối với nghiệp bất thiện đã cho một chúng sanh làm một con vật cũng vậy, có thể bị chướng nghiệp làm mất tác dụng để con vật ấy được hưởng những thoáng thoải mái và an vui hơn.

4. Đoạn nghiệp (upaghātaka-kamma): đó là bất thiện nghiệp hay thiện nghiệp cắt đứt nghiệp yếu hơn.

Chẳng hạn, thiện nghiệp cho một chúng sanh làm người có thể bị cắt đứt khiến người ấy phải chết trước khi hết thọ mạng. Nếu đó là một bất thiện nghiệp, người ấy có thể tái sanh làm một con thú, một ngạ quỷ hay tái sanh trong địa ngục; còn nếu đó là thiện nghiệp, người ấy có thể tái sanh trong thiên giới hay Phạm Thiên giới.

Đến đây kết thúc phần tóm tắt của chúng tôi về mười hai loại nghiệp mà Đức Phật thường dùng để giải thích về nghiệp.

Trích trong: Vận hành của nghiệp.

gg follow

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Khuynh hướng tâm

Phật giáo thường thức 11:10 10/12/2025

Khuynh hướng tâm ở đây có nghĩa là tính khí hay tính tình ảnh hưởng đến sự hình thành cá tính ở một người. Khuynh hướng có hai loại: tốt và xấu. Có 16 khuynh hướng loại tốt, đó là khuynh hướng về: sự xuất gia, sự độc cư, vô tham, vô sân, vô si, giải thoát, và 10 ba la mật.

Tham sân si, "món độc" nào nguy hiểm hơn?

Phật giáo thường thức 09:56 10/12/2025

Hỏi: Tôi rất thấm thía “tam độc” - tham, sân, si - là nguồn cơn của mọi khổ đau, nhưng không biết phải chuyển hóa ra sao. Món độc nào nguy hiểm nhất? Xin Ban biên tập gỡ rối giúp. (Lê Na, Hải Phòng)

Xem thêm