Nhìn nhận về Phật sự cầu siêu trong nhà Phật

Nhìn nhận về Phật sự cầu siêu trong nhà Phật, Hoà thượng Tịnh Không thuyết giảng.

Vì sao Đức Phật khuyên chúng ta đọc bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Vì bộ kinh này là hiếu kinh, tinh thần của bộ kinh có thể tóm lược thành bốn chữ “Hiếu thân tôn sư”. “Hiếu thân tôn sư” là cương lĩnh dạy học của thế xuất thế gian, cũng là căn bản nền tảng.

Chúng ta tu học Phật pháp Đại thừa bắt đầu từ đâu? Chính từ Bồ Tát Địa Tạng. Địa là tâm địa, tạng là bảo tàng. Bảo tàng quý giá trong tâm địa là trí tuệ vô lượng, phước đức vô lượng và khả năng vô lượng. Bảo tàng hạt châu vốn có trong tự tánh của chúng ta, vì thế mà gọi là Địa Tạng. Bảo tàng chôn dưới lòng đất, cũng như vàng bạc, khoáng sản, nếu không biết khai thác thì vẫn nằm sâu dưới đất, tuy có nhưng không thể hưởng dùng.

Chúng ta cần phải biết khai thác bảo tàng trong tự tánh, bằng cách dùng đến tánh đức, tức là lấy đức tính làm công cụ tương ứng với bảo tàng thì mới khai thác được. Thù thắng nhất trong tánh đức chính là hiếu và kính. Cho nên khi tu học Phật pháp Đại thừa, phải bắt đầu từ Bồ tát Địa Tạng. Học hiếu đạo trước, trong hiếu xây dựng sư đạo. Phật pháp là sư đạo được xây dựng trên nền tảng hiếu đạo.

Những năm trước đây, tôi gặp một số pháp sư đến hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Khi tiễn họ, tôi đã khuyên họ đến Hoa kỳ đừng xây chùa chiền trước, mà hãy xây dựng từ đường, xiển dương hiếu đạo. Vì sao? Vì nếu không có hiếu đạo thì Phật pháp không thể bám rễ, đạo tràng của Phật giáo không thể mạnh được.

Lấy hiếu đạo làm nền tảng giáo dục

Phật pháp là sư đạo, cho nên xây dựng từ đường tốt hơn. Từ đường để hoằng dương Phật pháp, có hiệu quả lớn hơn xây dựng tự viện. Nhìn vào hình ảnh chùa chiền, người ta biết ngay là Phật giáo, người không tin Phật nhất định không vào, duyên này liền bị cắt đứt. Nhưng nếu xây dựng từ đường, hàng năm cúng giỗ, người Trung Quốc bất kể theo tôn giáo nào vẫn không thể quên tổ tiên. Khi họ đến tham gia giỗ tổ, chúng ta có thể giảng thêm về Phật pháp, có thể giảng phương thức dạy học truyền thống Trung Quốc, dần dần cảm hóa đại chúng đến dự. Cho nên lấy từ đường làm đạo tràng lợi lạc hơn chùa chiền tự viện rất nhiều. Rất tiếc các vị pháp sư đó không tiếp nhận kiến nghị của tôi.

Cho nên tại Hoa Kỳ, người Nhật, người Trung Quốc đã xây rất nhiều đạo tràng, chủ yếu cũng chỉ độ cho người Trung Quốc. Thực tế người nước ngoài tại địa phương rất ít và hiếm khi vào, nguyên nhân cũng vì họ không tin Phật. Làm như vậy là chúng ta đã đảo ngược ngọn nguồn. Đến nay, tuy đã trải qua thời gian hơn một trăm năm, nhưng tại Hoa kỳ, Phật giáo truyền vào cũng chưa bám rễ được, chưa hoằng pháp thật hiệu quả, rất nhiều người chưa biết đến Phật pháp.

Khi tôi giảng kinh hoằng pháp tại Hoa Kỳ, nhắc nhở mọi người rằng chúng ta chưa đủ phước báu, lực lượng còn mỏng manh, tôi đề nghị hiện đại hóa và bản địa hóa Phật giáo. Khi xây dựng đạo tràng tại Hoa Kỳ, hình thức của đạo tràng nhất định phải theo hình thức của Hoa Kỳ. Không nên bưng nguyên xi hình thức cung điện kiểu Trung Quốc đến, người Mỹ nhìn thấy biết ngay là hàng ngoại, văn hóa ngoại lai, liền sinh tâm bài xích, và không thích đi vào. Xây dựng đạo tràng tại Hoa Kỳ, nên xây dựng theo hình thức như tòa Bạch ốc, hay kiểu Quốc hội…, người Mỹ cảm nhận như cảm nhận văn hóa mình, họ sẽ bị thu hút vào. Còn hình tướng Phật Bồ Tát trong đạo tràng thì tạc khắc theo hình dáng người Mỹ. Như thế mới có thể độ được người nước họ.

Hai nghìn năm trước đây, Phật pháp truyền vào Trung Quốc, những vị cao tăng Ấn Độ đã rất thông minh khi dựng tượng Phật Bồ Tát theo hình dáng người Trung Quốc, xây đạo tràng cũng theo hình thức của Trung Quốc. Người Trung Quốc rất tôn kính hoàng đế và nơi ở của hoàng đế. Lúc đó các vị cao tăng Ấn Độ đã xây dựng đạo tràng theo hình thức cung đình, bá tánh nhìn thấy đều rất hoan hỷ. Mấy ai có phước duyên được vào tham quan hoàng cung một lần trong đời. Thế nên chùa chiền tự viện được xây dựng cũng không khác hoàng cung bao nhiêu, cho nên dân chúng nhất định vào thăm. Đó là trang thiết bị phần cứng. Còn nội dung bên trong phải bắt đầu từ “hiếu kính”.

Phật giáo truyền vào Trung Quốc, tại sao được triều đình hoan nghênh nồng nhiệt như thế? Chính vì nội dung dạy học. Phần lý lẽ căn bản nhất hoàn toàn phù hợp với lý lẽ của thánh hiền Trung Quốc xưa. Cách dạy của nhà Nho cũng xây dựng trên nền tảng hiếu đạo. Phật pháp tương tự, thậm chí Phật pháp còn nói rõ hơn, chi tiết hơn Nho giáo. Do đó Phật pháp truyền vào Trung Quốc liền được triều đình hoan nghênh ủng hộ, thành công ngay thời điểm đó. Đối với xã hội, quốc gia, nhân dân, thực sự đã mang lại lợi ích và an lạc, tuyệt nhiên không phải là mê tín.

Đối tượng tu học Phật pháp từ lịch sử Trung Quốc đều là giai cấp sĩ đại phu. Thời kỳ đó, giai cấp sĩ phu tương đương thành phần tri thức ngày nay. Họ không phải là người bình thường mà là những người thật sự có học vấn, có đạo đức. Họ tu học, tiếp nhận Phật pháp, tín ngưỡng Phật Pháp rồi y giáo phụng hành, vì thế đạt hiệu quả trong việc thay đổi phong tục tập quán, dẫn dắt tầng lớp bình dân học và hành theo tập quán lương thiện. Còn hiện nay, chùa chiền tự viện đã biến chất, không còn dạy học. Ngày xưa tự viện là nhà trường, là môi trường dạy học, bây giờ tự viện trở thành môi trường siêu độ vong linh.

Hoàn toàn thay đổi, biến chất quá nặng.

Nhìn nhận về Phật sự cầu siêu trong nhà Phật

Thực ra việc cầu siêu cho vong linh vốn không có trong Phật giáo. Vậy tại sao diễn biến thành hiện tượng như thế này? Thời gian khi tôi bắt đầu học Phật, gần gũi pháp sư Đạo An, lúc đó chúng tôi cùng nhau tổ chức lớp nghiên cứu Phật học cho đại học. Tôi đã thỉnh giáo pháp sư Đạo An. Ngài từ bi dạy. Ngài nói duyên khởi vấn đề này có thể bắt đầu từ năm Khai Nguyên nhà Đường, tức thời đại của Đường Minh Hoàng. Cuối đời, Đường Minh Hoàng vì sủng ái Dương quý phi nên đã bị triều đình lên án, dẫn đến An Lộc Sơn tạo phản, cơ hồ mất nước. Rất may có tể tướng Quách Tử Nghi dẹp yên cuộc động loạn, nhưng quân dân chết rất nhiều.

Sau khi dẹp yên cuộc động loạn, triều đình tại mỗi chiến trường đều cho xây dựng một ngôi chùa gọi là Khai Nguyên tự. Chùa Khai Nguyên xuất hiện như thế, mục đích để truy niệm quân dân tử nạn, chùa đã thỉnh mời các pháp sư tụng kinh siêu độ, gọi là pháp hội truy điệu. Triều đình quốc gia khởi xướng truy điệu vong hồn người tử nạn, từ đó dân gian bắt chước, cứ trong dân chúng có người qua đời đều thỉnh mời pháp sư làm Phật sự cầu siêu. Việc cầu siêu thời đó chỉ là việc phụ thuộc, còn việc chính yếu trong đạo tràng vẫn là thuyết pháp giảng kinh, hướng dẫn đại chúng tu hành.

HT Thích Gia Quang. PCT Hội đồng trị sự Giáo hội PGVN trong lễ cầu siêu tại Hà Giang.

HT Thích Gia Quang. PCT Hội đồng trị sự Giáo hội PGVN trong lễ cầu siêu tại Hà Giang.

Tuy nhiên việc phụ này bây giờ đã biến thành việc chính thức của chùa chiền, còn việc chính thức thì lại biến mất, không thấy nữa. Nghề tay trái biến thành nghề chính, đúng là điên đảo. Đó là lý do hình thành xu hướng mê tín. Sự thực của việc thay đổi diễn biến, chúng ta cần phải hiểu. Lý luận, phương pháp, nguyên lý và nguyên tắc cầu siêu đều có viết trên kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện.

Người cầu siêu làm sao có thể chân thật cầu siêu được cho vong linh siêu thoát khỏi các cõi ác, sinh lên cõi trời, hưởng thụ phước báu. Kinh nói rất rõ ràng. Bản thân người cầu siêu cần phải chứng quả. Nếu bản thân không nâng cao được cảnh giới của mình, không thể chứng quả thì lợi lạc vong linh nhận được cũng rất giới hạn.

Bài học hiếu đạo trong kinh Địa Tạng

Kinh đưa ra ví dụ, nữ Quang Mục là một cô gái có hiếu, biết mẹ mình trong lúc sinh thời tạo nhiều ác nghiệp, cô hiểu Phật pháp, áp dụng lời Phật dạy. Những nghiệp mẹ cô đã tạo trong đời, nhất định phải đọa địa ngục, địa ngục dễ vào nhưng thật khó ra. Cô muốn cứu mẹ nên đến cầu Phật. Đức Phật dạy cô dùng phương pháp niệm Phật. Ngoài ra không còn cách nào khác. Bà la môn nữ dùng phương pháp niệm Phật, Quang Mục nữ cũng dùng phương pháp niệm Phật.

Bà la môn nữ chỉ là phàm phu nhưng vì muốn cứu mẹ nên trong một ngày một đêm, tinh tiến niệm Phật rất thành khẩn, đúng pháp, đạt nhất tâm bất loạn, liền chứng quả. Lúc ở trong thiền định, cô đến địa ngục, quỷ vương trong địa ngục nhìn thấy liền chấp tay gọi cô là Bồ tát.

Chúng ta thấy, từ phàm phu, tu hành một ngày một đêm đã siêu phàm nhập thánh. Quỷ vương chào: “Bạch Bồ tát, ngài đến đây có việc gì?”. Cô hỏi: “Đây là nơi nào?”- Quỷ vương trả lời địa ngục. Người vào địa ngục chỉ có hai đối tượng, một là theo nghiệp lực, đến chịu nghiệp báo; hai là bồ tát đến theo nguyện lực. Ngoài hai đối tượng này không ai có thể đến được địa ngục.

Sau đó cô hỏi quỷ vương về tung tích mẹ mình. Quỷ vương cho biết, mẹ của cô ba ngày trước đã sanh về cõi trời Đao Lợi. Không những mẹ cô mà những người chịu tội chung với mẹ cô cũng đều được sanh về cõi trời Đao Lợi. Họ nghe nói, bà có người con gái hiếu thảo tu phước cho bà, cúng dường Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Nhờ phước báu này, bà ta được vãng sanh.

Nếu không phải vì người mẹ tạo tội nghiệp đọa địa ngục thì nữ Quang Mục cả đời không thể đạt được cảnh giới như thế, vì ngày thường niệm Phật hay tán loạn, làm sao có thể đạt được nhất tâm. Với mong muốn cứu mẹ, cô đã cố hết sức trong một ngày đêm thay đổi hẳn cảnh giới của mình. Nữ Quang Mục có thể chuyển phàm thành thánh do trợ duyên của mẹ. Người mẹ được vãng sanh cũng vì lý lẽ này. Một mình nữ Quang Mục chỉ cầu siêu qua hình thức sẽ không có hiệu quả. Chính mình không có phước báu thì người được cầu siêu cũng không nhận lợi ích gì.

Công phu tu tập trước tiên ở chính mình

Pháp giới ở đường ác, và pháp giới ở cõi người chúng ta không khác nhau. Cũng như trong một gia đình, đứa con được giáo dục đàng hoàng, ra xã hội, đều được mọi người kính trọng, làm đến tổng thống, bộ trưởng, cha mẹ đi đến đâu cũng nhận được sự tôn kính của người khác. Còn bản thân mình không thành tựu, cha mẹ chúng ta làm sao được quỷ thần cung kính.

Kinh nói vấn đề cầu siêu, bảy phần công đức thì chính mình được sáu phần. Người được cầu siêu chỉ nhận một phần. Bản thân niệm Phật một ngày một đêm đạt đến nhất tâm bất loạn, công đức của bản thân là chính, người mẹ chỉ hưởng một phần, được một ít phước, sanh về cõi trời Đao Lợi. Vì vậy nếu bản thân không thể thành tựu, người thân sẽ không có được phước báu như thế.

Những lễ cúng bố thí bình thường chỉ là mời họ đến ăn cơm, như cúng diêm khẩu mông sơn. Một bữa ăn no chỉ qua được cơn đói nhất thời chứ không thể giúp họ thoát khỏi các đường ác. Chân thật muốn thoát khỏi đường ác, thì trong Phật sự cầu siêu độ này, những vị pháp sư làm lễ cầu siêu phải tùy văn nhập quán. Sau khi hoàn tất khóa lễ cầu siêu, bản thân pháp sư phải thật sự trở thành Bồ tát, cảnh giới của pháp sư được nâng cao ngay thì hiệu quả cầu siêu sẽ vô cùng lớn, vong linh siêu độ chắc chắn được sanh cõi trời. Các vị pháp sư phải tụng niệm nghiêm túc, tu trì bằng tâm thanh tịnh, bình đẳng. Chính pháp sư phải đạt siêu phàm nhập thánh, từ phàm phu thăng tiến đến Bồ tát.

Còn sau khi hoàn tất Phật sự, vẫn còn là phàm phu sẽ không có thành tựu cho vong linh. Chúng ta cần hiểu thấu vấn đề này. Do đó khi có Phật sự cầu siêu, hành giả phải nghiêm túc. Niệm tụng kinh văn, xưng tán những bài kệ, nhất định phải khế nhập vào cảnh giới đó. Sau khi nhập vào cảnh giới thì không được thối chuyển, có như vậy công đức mới vô lượng vô biên. Người nhận phước báu sẽ không thể nào đếm được. Không nên làm qua loa tắc trách cho xong chuyện.

Cầu siêu không thể cho giá, nói thách. Đó là cách làm ăn mua bán, không còn gì gọi là công đức nữa. Chạy theo hình thức như thế hoàn toàn sai. Cầu siêu không những siêu độ cho vong hồn mà còn siêu độ cho cả chính mình. Khi chính mình được siêu thì vong linh cũng theo mình mà siêu độ. Bản thân chưa có cách siêu độ chính mình thì chắc chắn không thể siêu độ được vong linh. Đây chính là điều kinh Phật thường nói.

Chúng tôi thường xuyên đọc lại kinh, nữ Quang Mục thật sự độ được bản thân, Bà la môn nữ cũng độ được bản thân. Sau khi bản thân được độ mới có thể độ được người khác. Những vong linh nhờ vào phước đức của người siêu độ mà vãng sanh. Nhưng vãng sanh cao nhất trong trường hợp này cũng chỉ đến cõi trời Đao Lợi. Muốn cao hơn cõi trời Đao Lợi, nhất định phải nhờ công phu tu hành của chính mình, người khác không thể giúp được.

Ở Trung Quốc trước đây, lễ cầu siêu quy mô lớn nhất là khi Lương Vũ Đế siêu độ hoàng hậu của mình. Người chủ trì pháp hội cầu siêu là pháp sư Bảo Chí, một cao tăng đương thời. Sau này chúng ta biết, pháp sư Bảo Chí là hóa thân của Bồ tát Quan Thế Âm. Đích thân Bồ tát Quan Thế Âm chủ trì pháp hội cầu siêu, sau này lưu truyền lại quyển Lương Hoàng Sám.

Như vậy, Bồ Tát Quan Thế Âm chủ trì pháp hội siêu độ hoàng hậu của Lương Võ Đế nhưng hoàng hậu cũng chỉ sanh đến cõi trời Đao Lợi. Giả sử chư Phật Như Lai chủ trì cũng như thế thôi. Vong linh dựa vào phước báu tha lực của người khác chỉ có thể đạt được cảnh giới nhất định. Muốn có cảnh giới cao hơn phải dựa vào tu hành của mình. Chính mình không công phu tu tập thì không xong. Vì thế khi tu hành, chúng ta phải chân thật chuyển biến được cảnh giới, thật sự có kết quả thì Phật sự cầu siêu này có thể không cần hình thức gì cả.

Trong hồi ký Ảnh Trần, lão pháp sư Đàm Hư nói, năm xưa ngài ở cùng vài người bạn, chuyên nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, “tám năm song cửa học Lăng Nghiêm”. Lúc đó ngài đang là cư sĩ, mỗi ngày còn phải làm việc, bôn ba vì cuộc sống nên không thể hoàn toàn chuyên tâm. Nhưng thời gian tám năm chỉ đọc một bộ kinh, ít nhiều cũng chứng tỏ ngài có định lực. Nếu trong tám năm đọc hàng chục bộ kinh sẽ không hiệu quả. Tám năm ròng tham cứu, tâm định trên một bộ kinh, oan gia trái chủ của ngài đã đến nhờ ngài siêu độ.

Khi nhìn thấy những vong hồn đến, ngài sợ hãi, e rằng những vong hồn ấy đến gây phiền phức. Nhưng oan gia trái chủ bước tới quỳ dưới chân ngài, cầu ngài siêu độ, tâm của ngài liền an ngay vì biết họ không phải đến gây phiền phức. Họ nói chỉ cần ngài đồng ý là có thể siêu được. Ngài liền gật đầu đồng ý, lập tức những vong hồn đáp trên đầu gối và vai ngài để vãng sanh. Hoàn toàn không có nghi thức gì cả.

Khi bản thân đạt được cảnh giới này, có công phu viên mãn, vong linh liền nương nhờ phước báu của chúng ta. Chỉ cần chúng ta đồng ý là được. Cho nên cần phải nhớ, siêu độ vong linh hoàn toàn dựa vào đức hạnh và công phu tu hành của chính mình. Chúng ta hiểu rõ lý lẽ này, hiểu thấu cảm ứng của tâm điện thì chính từ những tư tưởng, khởi tâm động niệm thiện phát ra sóng thuần thiện.

Lực của sóng mạnh có thể làm cho tất cả chúng sanh trên thế gian bao gồm quỷ thần, những sóng phát ra ác niệm bị sóng thiện bao phủ và triệt tiêu. Hiệu quả rất thù thắng. Nói về sinh nở, niệm bộ kinh này có nhiều lợi lạc. Khi niệm những điều nêu trong kinh điển như lý luận, phương pháp, cảnh giới đều hiểu thấu, hành giả càng có lực thù thắng hơn. Vì đã hiểu thấu thì đọc tụng có thể tùy văn nhập quán. Cảnh giới bình thường của chúng ta khó chuyển, tối thiểu trong khi đọc tụng, cảnh giới đó có thể biến chuyển một vài phần. Hiệu quả này đều hiện rõ trong hoạt động của sóng. Hiểu sâu sắc, biết y giáo phụng hành thì lực đó càng không thể nghĩ bàn.

> Giáo dục con từ trong bào thai (HT Tịnh Không thuyết giảng).

(Còn tiếp).

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Nguyễn Du - Tiếng lòng thiên thu

Nghiên cứu 23:14 20/12/2024

Thơ và thiền là đôi cánh đại bàng tung bay trên bầu trời Đông phương và Tây phương suốt từ nghìn xưa cho đến ngày nay.

Nguyện giải thoát ngay hiện tiền

Nghiên cứu 13:41 18/12/2024

Trong nhà Phật, lời nguyện có thể gặp ở bất kỳ kinh sách nào. Hầu hết các lời nguyện đều lớn vô cùng và trải dài vô cùng tận. Trong các chùa Thiền tông, chúng ta thường nghe tới Tứ hoằng thệ nguyện, nơi câu đầu “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” (Nguyện giải thoát vô số chúng sinh) đã mang tâm lượng vô biên, vô cùng tận.

Đời tu của tôi

Nghiên cứu 09:32 18/12/2024

Đời tu của tôi có những cái dễ nhưng cũng gặp những cái khó. Trong cái khó thật ra tôi không tính toán cũng không suy nghĩ phải làm sao, tôi chỉ âm thầm xin Tam Bảo gia hộ. Ai làm gì nói gì, tôi cứ lặng thinh mà chịu chờ Tam Bảo gia hộ, rồi cái tốt đẹp sẽ đến, tôi không có phản ứng để chống chọi gì hết.

Tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích ở Bắc Ninh

Nghiên cứu 11:12 17/12/2024

Ngôi cổ tự Phật Tích (tên gọi khác là chùa Vạn Phúc) toạ lạc trên núi Phượng Hoàng, Tiên Du, Bắc Ninh là nơi lưu lại dấu ấn truyền bá Phật giáo ở vùng Bắc bộ hơn nghìn năm. Chùa Phật Tích còn được biết đến là nơi lưu giữ 2 bảo vật quốc gia: Tượng Phật A-Di-Đà và bộ tượng 10 linh thú đá.

Xem thêm