Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.17)
Bởi vì chính bản chất của Giáo Pháp siêu thế là đi ngược với tâm trần tục. Đức Phật mô tả Giáo Pháp là “vi tế, thâm sâu, rất khó nhìn thấy”. Một trong những điều làm cho khó thấy Giáo Pháp là luận đề về hạnh phúc cao thượng nhất không thể có được qua nhân nhượng các khao khát của trái tim, nhưng phải qua sự chế ngự chúng.
Cho những ai đầu hàng trước số phận, Ngài dạy họ phải cố gắng nỗ lực trong hiện tại, để đảm bảo phẩm chất đời sống hiện tiền và vận mệnh tương lai. Cho những ai tin rằng sự hiện hữu chấm dứt khi thân thể chết đi, Ngài dạy rằng chúng sinh vẫn tiếp tục sau khi thân thể tan rã, tái sinh theo nghiệp của họ. Cho những ai chưa đủ chín muồi để thành tựu cao hơn, Ngài dạy họ nhắm đến tái sinh vào cõi trời và vui hưởng hạnh phúc và vinh quang của thiên đàng.
Sự thực chứng Niết bàn đến với nở hoa trí tuệ và mang lại bình an toàn hảo, hạnh phúc trong sạch và an định mọi thu thúc trong tâm. Niết bàn là hủy diệt mọi khát khao, thèm muốn. Nó là một hải đảo an toàn trong sóng gió dữ dội của tuổi già, bệnh tật và tử vong.
Ngài gióng một tín hiệu rõ ràng, cảnh báo tất cả mọi trạng thái hiện hữu đều nguy hại và đau khổ. Ngài nhấn mạnh, rõ ràng, về niềm hy vọng để có được sự an toàn vĩnh cửu là ở trong một tâm trí hoàn toàn thanh tịnh và giải thoát. Ngài trình bày con đường cắt ngang qua toàn bộ vô minh và ái dục và xua tan mọi dính mắc ngay cả trong những trạng thái tinh tế nhất của thiền định.
Như thế, sau khi làm chín muồi tâm trí của người nghe, Ngài giảng tiếp theo một giáo thuyết đặc biệt của riêng Ngài, đó là Tứ Thánh Đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Khi đức Phật dạy về Tứ Thánh Đế, mục đích của Ngài không phải dạy cho thính chúng một bài học về căn bản Đạo Phật, nhưng để đánh thức họ để có được “Pháp nhãn”, đó là thực chứng đầu tiên về chân lý siêu thế, đưa vị đệ tử nhập vào con đường tiến đến giải thoát, không còn thối lui.
Bởi vì chính bản chất của Giáo Pháp siêu thế là đi ngược với tâm trần tục. Đức Phật mô tả Giáo Pháp là “vi tế, thâm sâu, rất khó nhìn thấy”. Một trong những điều làm cho khó thấy Giáo Pháp là luận đề về hạnh phúc cao thượng nhất không thể có được qua nhân nhượng các khao khát của trái tim, nhưng phải qua sự chế ngự chúng.
Luận án này vận hành hoàn toàn trái ngược với tư duy, thái độ và hành động của con người đang đắm mình trong thế giới. Chừng nào chúng ta vẫn còn say mê với các quyến rũ gợi cảm của giác quan, chừng nào chúng ta vẫn còn ưa thích trở thành cái này cái nọ, chúng ta vẫn thấy Giáo Pháp cao quý này như là một bí ẩn, một vấn đề khó hiểu.
Ngài dùng các ví dụ so sánh, ẩn dụ, ngụ ngôn để minh họa cụ thể, giúp cho các lập luận được hấp dẫn hơn. Có khi Ngài bảo vệ mạnh mẽ các nguyên tắc của mình, khi đối phương là những nhà tu khổ hạnh thù địch hay các tu sĩ hư đốn trong giáo đoàn của Ngài (xem thêm phần mở đầu của các bài kinh MN 22 và MN 38). Sự thành công tốt đẹp của đức Phật khi thực hiện công việc khó khăn này được liệt vào những sự thành tựu tuyệt vời và vi diệu. Kinh văn VI,1 là một bằng chứng hùng hồn cho điều đó.
Thông thường, chúng ta nhìn sự vật qua lăng kính của thành kiến chủ quan. Những thành kiến này được uốn nắn bởi tham ái và chấp thủ và từ đó, củng cố thêm tham ái và chấp thủ. Chúng ta chỉ thấy những gì ta muốn thấy. Chúng ta xóa đi những gì đe dọa hay làm phiền ta, những gì khuấy động sự mãn nguyện, những gì đặt ra câu hỏi về những giả định an ổn về ta và đời sống của ta. Để thay đổi quá trình này, chúng ta phải quyết tâm với chân lý, thông thường rất bất an, nhưng về lâu dài sẽ đem lại thư thái và giải thoát.
Ba bước đó là vị ngọt (assāda), nguy hại (ādı̄nava) và xuất ly (nissaraṇa). Trong ba Kinh văn VI,2(1)-(3), tiến trình này áp dụng chung cho thế giới.
Trong các bài kinh khác của kinh tạng Nikāya, tiến trình này được áp dụng đặc biệt hơn cho tứ đại (SN 14:31-33), ngũ uẩn (SN 22:26-28), sáu nội căn và sáu ngoại căn (SN 35:13-18). đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tiến trình này với lời tuyên bố rất khẳng định là cho đến khi nào Ngài chưa như thật giác tri như thế, Ngài không có xác nhận đã chứng đạt vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu ta trả lời câu hỏi này một cách hết sức thành thật, trong khung tâm thức vô tư, ta sẽ nhận ra rằng những lạc thú đó không thật sự thỏa lòng. Ngược lại, chúng có những hạn chế và khiếm khuyết từ tầm thường đến thảm khốc, những khiếm khuyết mà chúng ta luôn tự che dấu, để ta có thể tiếp tục tầm cầu vị ngọt mà không bị cản trở.
Đó là sự nguy hại, là bước thứ hai hay là bước quan sát. Sự nguy hại phổ biến nhất núp đằng sau mặt tiền vô tội của các dục lạc thế gian là bản chất vốn có của vô thường (anicca), gắn liền với đau khổ và bất toại nguyện (dukkha), của những sự đổi thay không tránh được và suy tàn (vipariṇ̣āma- dhamma).
Đây là sự tìm kiếm lối thoát ra khỏi tòa nhà đang bị cháy, hay đến gặp bác sĩ khi ta bị nóng sốt liên tục, hay sự quyết định bỏ hút thuốc lá khi ta hiểu rõ nó tạo nguy hại cho sức khỏe. Một khi ta thấy các đối tượng ta chấp thủ là không tốt, chứa đầy các nguy hiểm ẩn tàng, ta nhận thức được rằng con đường xuất ly là từ bỏ các chấp thủ vào chúng. Đây là “tháo gỡ, loại bỏ các ham muốn và dục vọng” (chandarāga-vinaya, chandarāga-pahāna).
Theo trình tự trong bài kinh, phạm vi thẩm tra mở rộng từ cá nhân đến tập thể, bao gồm các hậu quả về xã hội và chính trị. Bài kinh đạt đến đỉnh cao khi nhấn mạnh đến chiến tranh và tàn phá con người, đi theo những thúc dục điên cuồng hàng loạt để thỏa mãn dục lạc. “Sắc” là hình dạng thân thể.
Đức Phật bắt đầu giảng về sắc bằng cách hỏi các vị tu sĩ hãy nhận thức về cô gái trẻ đẹp. Rồi Ngài giảng lần lượt về các giai đoạn suy tàn của cơ thể, qua già nua, bệnh tật, chết và phân hủy thân xác cho đến khi xương tan rã thành bột. Để chỉ nguy hại của “cảm thọ”, đức Phật chọn các cảm thọ của một tu sĩ trong thiền-na, các tầng thiền định, đó là những chứng nghiệm tinh tế nhất của thế gian về hỷ lạc và an bình. Ngài chỉ ra rằng ngay cả các cảm thọ tuyệt đỉnh này rồi cũng vô thường, bất toại nguyện và có thể thay đổi.
Trong Kinh văn VI,4(1), đức Phật đối thoại với một gia chủ kiêu ngạo, ông ta tưởng rằng mình đã “dứt bỏ mọi vấn đề thế tục”. Để phá tan sự tự mãn ấy, đức Phật dùng một loạt các ảnh dụ để phơi bày các dối trá của dục lạc cho ông ta thấy “dứt bỏ các vấn đề thế tục” có nghĩa là gì trong hệ thống huân tập của ông ta. Sử dụng các ảnh dụ cũng được thấy trong Kinh văn VI,4(2), mô tả đức Phật đối thoại với một người theo chủ nghĩa khoái lạc có tên là Māgandiya.
Ở đây, đức Phật cho rằng thú vui nhục dục chỉ có được qua biến dạng của nhận thức. Nhưng khi nhìn đúng, chúng như là ngọn lửa đang cháy trong hầm than – “đau đớn khi sờ vào, nóng và thiêu đốt”. Đoạn kinh này bao gồm các ví dụ mạnh mẽ nhất trong kinh tạng Nikāya mà đức Phật đã sử dụng để chỉ dạy.
Vì thế, suy quán về sự chết là một trong những đề mục quan trọng trong pháp thiền Phật giáo. Ở những bài kinh khác, đức Phật dạy rằng quán niệm về sự chết “khi phát triển và nuôi dưỡng, sẽ giúp bước vào sự Bất tử và đạt đến Bất tử” (AN 7:46). Ở đây, đời sống ngắn ngủi được tính bằng cách đếm ngày, đếm mùa, ngay cả đếm các bữa ăn trong một kiếp sống.
Đức Phật bảo ngài phải xin phép cha mẹ, nhưng song thân, vì quá yêu thương con, từ chối, không cho phép. Vì thế, ngài Raṭṭhapāla nằm xuống đất và từ chối ăn uống, quyết định sẽ chết tại đó nếu không được phép cho xuất gia. Cuối cùng, song thân nhượng bộ và cho phép ngài xuất gia, với điều kiện sau này ngài phải trở về thăm cha mẹ. Nhiều năm sau đó, khi ngài trở về thăm cha mẹ, song thân tìm cách lôi kéo ngài trở lại đời sống thế tục, nhưng ngài đã đắc A-la-hán nên ngài đã vượt lên trên các tình trạng hoàn tục.
Người nào bám chặt vào quan kiến riêng của họ trong một tình huống đặc biệt nào đó, thường tạo xung đột với những người trong tình huống đó nhưng có một cái nhìn khác biệt.
Chủ thuyết thường kiến xác định có một phần tử bất diệt trong mỗi cá nhân, một cái ngã bất hoại diệt và một căn bản vĩnh hằng của thế giới, chẳng hạn như một Thượng đế toàn năng. Chủ thuyết đoạn kiến chối bỏ những gì còn tiếp tục sau khi chết, cho rằng một cá nhân hoàn toàn kết thúc khi thân thể ngưng hoạt động.
Theo đức Phật, thường kiến đưa đến việc vui hưởng trong hiện hữu và trói buộc chúng sinh trong chu kỳ hiện hữu. Đoạn kiến thường đi kèm với sự ghê tởm hiện hữu và một cách nghịch lý, cũng trói buộc những ai theo chủ thuyết này vào vòng hiện hữu mà họ ghê tởm. Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, lời dạy của đức Phật về lý duyên khởi giúp ta tránh được cả hai ngõ cụt vô ích đó (xem thêm chương IX).
Tuy nhiên, từ góc nhìn của giáo lý đức Phật, các sự chứng đắc như thế chỉ tạo tiềm năng để tái sinh vào cõi giới mà trong đó, kinh nghiệm thiền định trở thành điều kiện cơ bản của ý thức. Hay nói cách khác, chứng đạt các trạng thái đó trong cõi người đưa đến tái sinh vào trong những cõi của sắc giới hay vô sắc giới.
Trong khi nhiều tôn giáo hướng đến một cõi thiêng liêng như là lời giải đáp tối hậu cho các đau khổ của con người, giáo lý đức Phật cho rằng những cõi giới này không đưa ra một lối thoát khỏi sự vô thường và khổ đau của Ta-bà.
Nhưng cuối cùng, họ cũng sẽ chết, không tránh được và có thể tái sinh rơi xuống những cõi khổ. Có những bài kinh tương tự không trích dẫn ở đây (AN 3:114, 4:124) cũng nói tương tự về các cõi tái sinh tương ứng với các tầng thiền-na và đắc vào các cảnh giới vô sắc.
Trong Kinh văn VI,9(2), Ngài nói với một nhóm ba mươi Tỳ kheo rằng số lượng máu đổ ra khi họ bị giết và tàn sát trong chu kỳ của những kiếp tái sinh còn nhiều hơn nước của bốn đại dương. Theo các nhà biên tập bài kinh, tác động của bài kinh này vào ba mươi Tỳ kheo đó mạnh mẽ đến nỗi tất cả các vị đều được giải thoát hoàn toàn ngay tại chỗ.
Quần chúng ưa thích kiêu mạn, thích thú kiêu mạn, hoan hỷ kiêu mạn, khi pháp không kiêu mạn được Như Lai thuyết giảng, họ khéo nghe, lắng tai, chánh trí an trú tâm. Khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện, đây là sự vi diệu chưa từng có thứ hai xuất hiện.
Tỳ kheo Bodhi biên soạn và giới thiệu
Bình Anson dịch
Trích trong Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli
Còn nữa…
TIN, BÀI LIÊN QUAN:
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.16)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.15)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.14)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.13)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.12)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.11)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.10)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.9)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P8)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P7)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P6)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P5)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P4)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P3)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.2)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.1)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
"Đường xưa mây trắng" giúp diễn viên Trương Ngọc Ánh tìm được bình yên
Sách Phật giáo 10:56 13/11/2024Trương Ngọc Ánh kể khi ly hôn, chị chơi vơi. Thông điệp cuốn sách “Đường xưa mây trắng” của Thiền sư Nhất Hạnh giúp chị tìm được bình yên trong lòng.
Sách là một công cụ giúp con người thiền định
Sách Phật giáo 15:27 12/11/2024Theo Niel Seligman (Diễn giả quốc tế về thiền định và kỹ năng sống), thiền và đọc sách có điểm chung là giúp con người tiến vào sự tập trung cao độ.
Cuốn sách giá trị về cuộc đời Đại sư Huyền Trang
Sách Phật giáo 17:03 07/11/2024“Cuộc đời và sự nghiệp của Đại sư Huyền Trang” của Thích Tuệ Lập và Thích Ngạn Tông, do Nguyễn Phố dịch, NXB Dân Trí ấn hành là tác phẩm không thể thiếu cho những ai quan tâm đến Phật giáo, lịch sử và văn hóa nhà thiền.
TS Trần Hữu Đức chia sẻ cách ngừng khổ và tạo phúc
Sách Phật giáo 11:32 05/11/2024“Hạnh phúc không mọc trên cây” là một tác phẩm đặc biệt được chấp bút bởi TS Trần Hữu Đức dành cho những ai đang gặp bế tắc, đau khổ, loay hoay trên con đường đi tìm hạnh phúc.
Xem thêm