Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.20)
Nỗ lực để đạt tới toàn thiện tâm linh không phải chỉ là hành trình đơn độc, nhưng xảy ra tùy thuộc vào những liên hệ cá nhân chặt chẻ. Tình thân hữu tâm linh đem một chiều hướng nhân bản không thể tách rời vào việc thực hành Giáo Pháp và gắn bó những hành giả Phật giáo trong một cộng đồng đoàn kết hàng dọc giữa thầy và trò và hàng ngang giữa những người bạn cùng đi trên một con đường chung.
Vị ấy nếm được vị ngọt của thiền ấy, ái luyến thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi Phạm chúng thiên. Một tăng-kỳ kiếp, này các Tỳ kheo, là tuổi thọ vô lượng của chư thiên ỏ cõi Phạm chúng thiên.
Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư thiên ấy, đi đến địa ngục, đi đến bàng sinh, đi đến ngạ quỷ.
Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của thiền ấy, ái luyến thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi Quang âm thiên. Hai tăng-kỳ kiếp, này các Tỳ kheo, là tuổi thọ vô lượng của chư thiên ỏ cõi Quang âm thiên.
Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư thiên ấy, đi đến địa ngục, đi đến bàng sinh, đi đến ngạ quỷ.
Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với hỷ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của thiền ấy, ái luyến thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi Biến tịnh thiên. Bốn tăng-kỳ kiếp, này các Tỳ kheo, là tuổi thọ vô lượng của chư thiên ở cõi Biến tịnh thiên.
Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư thiên ấy, đi đến địa ngục, đi đến bàng sinh, đi đến ngạ quỷ.
Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị ngọt của thiền ấy, ái luyến thiền ấy và do vậy tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư thiên ở cõi Quảng quả thiên. Năm trăm tăng-kỳ kiếp, này các Tỳ kheo, là tuổi thọ vô lượng của chư thiên ở cõi Quảng quả thiên.
Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ của chư thiên ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư thiên ấy, đi đến địa ngục, đi đến bàng sinh, đi đến ngạ quỷ.
Đây là những đề tài chúng ta đã khảo sát trong chương trước. Con đường đưa hành giả đến trạng thái giải thoát nằm ngoài tất cả các cõi giới hữu vi, tiến đến sự vô ưu và hạnh phúc vô nhiễm của Niết bàn mà đức Phật đã thực chứng trong đêm thành đạo.
Kinh văn VII,1(1) – Tiểu kinh Māluṅkyāputta (MN 63), cho thấy rằng con đường của đạo Phật không phải được thiết kế để cung cấp các trả lời lý thuyết cho các câu hỏi triết lý. Trong bài kinh, tu sĩ Māluṅkyāputta đến gặp đức Phật và yêu cầu Ngài trả lời cho mười câu hỏi mang tính suy đoán. Ông ấy nói sẽ rời khỏi Tăng đoàn nếu các yêu cầu của ông ta không được đáp ứng.
Các học giả tranh luận không biết vì sao đức Phật từ chối trả lời các câu hỏi đó, vì chúng trên nguyên tắc là bất khả giải đáp hay đơn giản là vì chúng không liên quan gì đến lời giải thực tế của vấn đề hoạn khổ. Hai sưu tập các bài kinh trong Tương ưng bộ – SN 33:1-10 và SN 44:7-8 – đã chỉ rõ rằng sự im lặng của đức Phật có một cơ sở sâu sắc hơn là các mối quan tâm thực tế.
Các bài kinh này cho thấy các câu hỏi như thế dựa trên một giả định rằng sự hiện hữu được giải thích bằng các cơ sở về một bản ngã và thế giới, trong đó, bản ngã được đặt vào thế giới ấy. Vì các cơ sở này không có căn cứ, câu trả lời dựa trên các cơ sở đó cũng không có giá trị. Vì thế, đức Phật bác bỏ ngay các câu hỏi này.
Cho dù các quan kiến này có đúng hay không, đức Phật nói “vẫn có sinh, già, chết, sầu ưu, khổ não, đau đớn, chán nản, tuyệt vọng và Ta chỉ rõ sự đoạn trừ chúng ngay bây giờ và tại nơi đây”. Đối ứng với bối cảnh Ta-bà luân hồi trình bày trong phần cuối của chương trước, lời tuyên bố này bây giờ có ý nghĩa mở rộng: sự “đoạn trừ sinh, lão, tử” không phải chỉ chấm dứt hoạn khổ trong một đời, mà còn là chấm dứt hoạn khổ vô lượng của tái sinh, lão hóa và tử vong, mà chúng ta trôi lăn trong vô lượng kiếp của Ta-bà.
Đức Phật tuyên bố rằng các trạm dừng nghỉ dọc theo con đường – như giới luật, định tâm, ngay cả tri kiến – cũng chưa phải là mục đích cuối cùng của đời sống tâm linh. Mục tiêu chính, cốt lõi hay mục đích căn bản, là “tâm bất động”, và Ngài khuyến tấn những người gia nhập con đường ấy không nên thỏa mãn với những gì kém hơn.
Nỗ lực để đạt tới toàn thiện tâm linh không phải chỉ là hành trình đơn độc, nhưng xảy ra tùy thuộc vào những liên hệ cá nhân chặt chẻ. Tình thân hữu tâm linh đem một chiều hướng nhân bản không thể tách rời vào việc thực hành Giáo Pháp và gắn bó những hành giả Phật giáo trong một cộng đồng đoàn kết hàng dọc giữa thầy và trò và hàng ngang giữa những người bạn cùng đi trên một con đường chung.
Tuy nhiên, cho đến khi đạt được giai đoạn đó, điều không thể tránh khỏi là các phần tử của con đường cho thấy một mức độ tuần tự trong tiến trình.
Thông thường, tám yếu tố đó được xếp vào ba nhóm như sau:
Trong nhiều bài kinh, lúc nào ta cũng thấy giải trình tu tập từng bước bắt đầu với việc xuất gia và áp dụng đời sống Tỳ kheo (bhikkhu), một vị tu sĩ Phật giáo. Điều này chứng tỏ chú tâm đến tầm quan trọng của đời sống nhà tu trong tầm nhìn thực dụng của đức Phật. Trên nguyên tắc, toàn bộ sự thực hành Bát Chi Thánh Đạo rộng mở cho tất cả mọi người trong mọi cách sống, tại gia hay xuất gia.
Đức Phật xác nhận rằng có rất nhiều vị trong hàng cư sĩ đã đắc Pháp và đã đạt ba giai đoạn đầu của bốn giai đoạn giác ngộ, đến quả vị Bất lai (anāgāmī). Các nhà chú giải Nam truyền nói rằng những tín đồ cư sĩ cũng có thể đắc quả vị thứ tư, quả A-la-hán, nhưng các vị đó đang ở bờ vực của cái chết, hoặc sau khi đắc quả, phải nhanh chóng xuất gia. Tuy nhiên, thực tế là đời sống tại gia chắc chắn đưa đẩy vô số quan tâm trần tục và dính mắc cá nhân, làm cản trở sự quyết tâm tầm cầu giải thoát.
Vì thế, đức Phật đã bắt đầu công cuộc tầm cầu cao thượng của Ngài bằng cách rời bỏ gia đình. Sau khi giác ngộ, như là phương cách thiết thực để giúp những người khác, Ngài thành lập Tăng đoàn, đoàn thể của tu sĩ nam và tu sĩ nữ, cho những ai mong muốn dấn thân trọn vẹn cho Giáo Pháp, không bị cản trở bởi đời sống tại gia.
(1) phiên bản dài có những giải thích chi tiết hơn về việc tuân giữ nghi thức tu sĩ và sự tự kiềm chế của nhà tu khổ hạnh;
(2) phiên bản dài bao gồm tám tuệ minh trong khi phiên bản ngắn chỉ có ba.
Tuy nhiên, vì ba loại tuệ minh này là những gì ghi lại khi đức Phật giác ngộ (xem Kinh văn II,3(2)), ba loại minh đó là quan trọng nhất. Các mô hình chính cho phiên bản dài của sự tu tập từng bước được tìm thấy ở bài kinh DN 2; phiên bản ngắn hơn ở bài kinh MN 27 và MN 51, với vài biến thể ở các bài kinh MN 38, MN 39, MN 53, MN 107 và MN 125.
Ở đây, Kinh văn VII,4 bao gồm toàn thể bài kinh MN 27, trong đó, sự huân tập được ví dụ như các dấu chân của con voi và từ đó lấy làm tên của bài kinh. Kinh văn VII,5 – trích đoạn từ kinh MN 39, lặp lại các giai đoạn cao hơn của tu tập như mô tả trong kinh MN 27, nhưng bao gồm các ví dụ rất ấn tượng.
Nhưng các đoạn kinh văn khác của kinh tạng Nikāya cung cấp những hướng dẫn cụ thể hơn và các chú giải Pāli thường có những chi tiết nhiều hơn nữa. Các ví dụ trong kinh MN 39 – xem Kinh văn VII,5 – minh họa các cảm giác hỷ lạc của sự tự do khi hành giả chiến thắng, sau khi khắc phục được các triền cái.
Mặc dù trí tuệ, không phải định tâm, là yếu tố quan trọng để đạt giác ngộ, đức Phật luôn luôn bao gồm các tầng thiền-na vào con đường tu tập từng bước, ít nhất với hai lý do:
Thứ nhất, bởi vì chúng đóng góp vào việc hoàn thiện bên trong của con đường;
Thứ hai, bởi vì chúng đưa đến mức định thâm sâu, là cơ sở để phát khởi tuệ minh.
Đức Phật gọi các bậc thiền-na là “bước chân của Như Lai” (MN 27:19-22) và chỉ rõ chúng là tiền thân của hạnh phúc Niết bàn nằm ở điểm cuối của sự tu tập.
Phân biệt với những thiền-na thấp bằng tính siêu việt của những ảnh tâm tinh tế dùng làm đối tượng của thiền-na, chúng được đặt tên là không vô biên xứ, thức vô viên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Đây là công phu quán soi “vạn pháp như thị”, đưa đến kết quả gia tăng minh quán thâm sâu về bản chất của hiện hữu, đưa đến mục tiêu cuối cùng, đó là chứng đắc quả A-la-hán.
Mặc dù hai loại minh đầu không cần thiết cho việc thực chứng A-la-hán, có lẽ đức Phật bao gồm chúng ở đây vì chúng giúp cho thấy rõ chiều hướng rộng lớn và sâu xa của hoạn khổ trong cõi ta-bà và từ đó, sửa soạn cho tâm ý thấu đạt Tứ Thánh Đế, trong đó, Khổ được chẩn đoán và trừ diệt.
Khi tâm trí của vị đệ tử được giải thoát khỏi các lậu hoặc qua việc hoàn tất con đường của A-la-hán, vị ấy duyệt lại sự tự do mới vừa đạt được và rống lên tiếng rống sư tử: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại bất cứ trạng thái hiện hữu nào nữa”.
Tỳ kheo Bodhi biên soạn và giới thiệu
Bình Anson dịch
Trích trong Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli
Còn nữa…
TIN, BÀI LIÊN QUAN:
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.19)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.18)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.17)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.16)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.15)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.14)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.13)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.12)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.11)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.10)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.9)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P8)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P7)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P6)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P5)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P4)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P3)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.2)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.1)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
"Đường xưa mây trắng" giúp diễn viên Trương Ngọc Ánh tìm được bình yên
Sách Phật giáo 10:56 13/11/2024Trương Ngọc Ánh kể khi ly hôn, chị chơi vơi. Thông điệp cuốn sách “Đường xưa mây trắng” của Thiền sư Nhất Hạnh giúp chị tìm được bình yên trong lòng.
Sách là một công cụ giúp con người thiền định
Sách Phật giáo 15:27 12/11/2024Theo Niel Seligman (Diễn giả quốc tế về thiền định và kỹ năng sống), thiền và đọc sách có điểm chung là giúp con người tiến vào sự tập trung cao độ.
Cuốn sách giá trị về cuộc đời Đại sư Huyền Trang
Sách Phật giáo 17:03 07/11/2024“Cuộc đời và sự nghiệp của Đại sư Huyền Trang” của Thích Tuệ Lập và Thích Ngạn Tông, do Nguyễn Phố dịch, NXB Dân Trí ấn hành là tác phẩm không thể thiếu cho những ai quan tâm đến Phật giáo, lịch sử và văn hóa nhà thiền.
TS Trần Hữu Đức chia sẻ cách ngừng khổ và tạo phúc
Sách Phật giáo 11:32 05/11/2024“Hạnh phúc không mọc trên cây” là một tác phẩm đặc biệt được chấp bút bởi TS Trần Hữu Đức dành cho những ai đang gặp bế tắc, đau khổ, loay hoay trên con đường đi tìm hạnh phúc.
Xem thêm