Niệm niệm tương ưng, niệm niệm thành Phật
“Mỗi niệm mỗi niệm tương ưng, tức mỗi niệm mỗi niệm thành Phật”. Nếu mỗi niệm mỗi niệm tương ưng với tánh Không, hay tánh Như, hay Pháp thân này, thì mỗi niệm mỗi niệm thành Phật.
Chân thật niệm Phật Cực Lạc hiện tiền
Ngữ lục của Thiền sư Minh Châu Hương Hải:
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào. Người học biết một niệm vừa khởi thì rõ chẳng thể đắc, đó là quá khứ Phật. Quá khứ không có, vị lai cũng không, đó là vị lai Phật. Ngay bây giờ, niệm niệm chẳng dừng, đó là hiện tại Phật. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Đó là pháp môn phương tiện tối sơ”.
(Hựu vân: Ngã nhất cử tâm dĩ thuộc quá khứ. Ngã tâm vị cử phương danh vị lai. Phi vị lai tâm tức quá khứ tâm, hiện tại chi tâm phục tại hà xứ. Học giả tri nhất niệm tài khởi, liễu bất khả đắc, thị quá khứ Phật. Quá khứ bất hữu, vị lai diệc không, thị vị lai Phật. Tức kim niệm niệm bất tại, thị hiện tại Phật. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Thử thị tối sơ phương tiện chi môn.)
Trong đoạn ngữ lục này, ngài chỉ dạy về tâm. Sự chỉ dạy ấy có tính cách trực tiếp, chỉ thẳng cho người đã chuẩn bị bằng thiền định (Chỉ) và thiền quán (Quán) khiến họ có thể trực tiếp thấy bản tánh của tâm.
Con người dù ý thức rõ ràng hay một cách vô thức, luôn luôn đi tìm cách thoát khỏi cái chết, nói cách khác, luôn luôn đi tìm sự bất tử. Bởi vì, ai cũng biết thân thể này sẽ chết, cho nên chỉ còn có thể tìm nơi tâm, nơi bản tánh của tâm, nơi bản tâm. Theo kinh điển và theo kinh nghiệm của những vị đã chứng ngộ thì bản tâm ấy không chết. Đó là lý do của người tìm đạo, nghĩa là tìm bản tâm, tìm con người thật không bị sống chết trói buộc.
“Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ”. Tâm vừa khởi thì lập tức nó đã là quá khứ, đã trôi theo thời gian, và không thể nắm giữ. Vậy thì tâm khởi không phải là bản tâm mà ta tìm kiếm. Bản tâm không phải thuộc về quá khứ.
“Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai”. Nếu tìm tâm ở vị lai thì chẳng có tâm, vì tâm chưa khởi thì không có tâm, có gì mà tìm. Ở vị lai mãi mãi sẽ không có tâm, vì tâm chỉ có khi tâm khởi, mà vị lai thì không có tâm khởi.
“Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào”. Tâm vị lai chẳng phải là tâm quá khứ, hai tâm khác biệt nhau chứng tỏ có sự thay đổi, thì đâu phải là bản tâm bất biến, vượt ngoài thời gian, vượt ngoài sự sanh diệt.
Tâm hiện tại thì không có dấu vết, vì không phải “vừa khởi” của tâm quá khứ và không phải “chưa khởi” của tâm vị lai.
Bằng thiền định và thiền quán, chúng ta không thể tìm thấy ba tâm, và chúng ta thấy ra sự thật: ba tâm chẳng thể đắc, bất khả đắc. Sự thật này vẫn thường được nói trong kinh. Chẳng hạn, Kinh Kim Cương nói: “Tâm quá khứ chẳng thể đắc, tâm hiện tại chẳng thể đắc, tâm vị lai chẳng thể đắc”.
Sự thật tâm là tánh Không, mà người xưa nói là “tâm Không”, “vô tâm”. Bản tánh của tâm là tánh Không, đó là sự giải thoát cho cả ba tâm. Bản tánh của tâm vừa khởi, của tâm đang khởi và của tâm sẽ khởi là tánh Không. Tâm vừa khởi, tâm đang khởi, tâm sẽ khởi là tánh Không. Nghĩa là mặc cho tâm vừa khởi đang khởi hay sẽ khởi, chúng vẫn là tánh Không chẳng thể đắc. Chúng không thể tạo ra thời gian, tạo ra có sống có chết.
“Người học biết một niệm vừa khởi thì rõ chẳng thể đắc, đó là quá khứ Phật. Quá khứ không có, vị lai cũng không, đó là vị lai Phật. Ngay bây giờ, niệm niệm chẳng dừng, đó là hiện tại Phật”. “Chẳng thể đắc” này chính là Phật, chính là Pháp thân, chính là thực tại “chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm” (Bát Nhã Tâm Kinh).
Nhưng Kinh Đại Bát Nhã nói tánh Không là tánh Như, và tánh Như chính là Như Lai, là Phật:
“Như Lai tướng Như tức là tất cả các pháp tướng Như, tất cả các pháp tướng Như tức là Như Lai tướng Như. Lại Như Lai Như là tướng thường trụ, Tu Bồ Đề như cũng là tướng thường trụ. Như Lai tướng Như không dị không biệt, Tu Bồ Đề tướng Như cũng không dị không biệt…
Lại Như Lai Như chẳng ở trong Như quá khứ, chẳng ở trong Như vị lai, chẳng ở trong Như hiện tại. Quá khứ Như, vị lai Như, hiện tại Như cũng chẳng ở trong Như Lai Như, vì là một Như, không hai không khác. Sắc Như, Như Lai Như; thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như, là một Như, không hai không khác”. (Kinh Đại Bát Nhã, phẩm Đại Như).
Tánh Không là tánh Như, đó cũng là Pháp thân, là Như Lai. Như Lai là tướng Như, tướng Như đó là tướng Như của tất cả các pháp, của tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai. Tất cả là một Như, không hai không khác. Như đó là Phật, là Pháp thân.
Thế nên, Thiền sư Hương Hải nói quá khứ, hiện tại, vị lai đều không nhưng không phải là không có gì cả mà là “quá khứ Phật, vị lai Phật, hiện tại Phật”. Nói cách khác, quá khứ, hiện tại, vị lai là tướng Như, tướng Như ấy là thật tướng của Phật và của tất cả các pháp: “quá khứ Phật, vị lai Phật, hiện tại Phật”.
“Mỗi niệm mỗi niệm tương ưng, tức mỗi niệm mỗi niệm thành Phật”. Nếu mỗi niệm mỗi niệm tương ưng với tánh Không, hay tánh Như, hay Pháp thân này, thì mỗi niệm mỗi niệm thành Phật.
Chúng ta đều biết trong ngôn ngữ Thiền tông, “nhất niệm tương ưng” là đốn ngộ, thấy trực tiếp thực tại và “niệm niệm tương ưng” là tiệm tu, nhập sâu vào thực tại, mà kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhập Pháp Giới.
“Niệm” là gì? Niệm là chữ Hán Việt, gồm chữ “kim” (hiện tại, khoảnh khắc hiện tại) ở trên và chữ “tâm” (những hoạt động của tâm) ở dưới. Như thế, niệm gồm hai nghĩa, một nghĩa nhấn mạnh về thời gian, và một nghĩa nhấn mạnh về hoạt động của tâm. Niệm niệm là khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, và niệm niệm là ý tưởng này qua ý tưởng khác.
Phải chăng niệm Phật sẽ được thành Phật trong một đời?
Niệm niệm tương ưng, niệm niệm thành Phật nghĩa là từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác đều tương ưng với Pháp thân, với Phật, cho nên dòng tâm thức thanh tịnh tương tục từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác chính là Phật, là tâm Phật. Niệm niệm thành Phật là từng khoảnh khắc một đều là Phật.
Nếu hiểu niệm là ý nghĩ thì câu trên nghĩa là mỗi ý nghĩ mỗi ý nghĩ đều tương ưng với Pháp thân, với Phật thì mỗi ý nghĩ mỗi ý nghĩ đều là Pháp thân, đều là Phật.
Câu kết luận của đoạn chỉ dạy này là:
“Đó là pháp môn phương tiện tối sơ”.
“Tối sơ” là ở ngay đầu nguồn. Ở ngay đầu nguồn là nơi ấy tâm chúng sanh và tâm Phật không khác nhau, chân và vọng cùng một thể, như ở đoạn sau Thiền sư Hương Hải nói:
“Cho nên chân và vọng, vật và ta, nêu lên một mà gồm thu tất cả. Tâm, Phật và chúng sanh vốn vẫn cùng chung một đường”.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?
Kiến thức 20:09 02/11/2024Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.
Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp
Kiến thức 14:50 02/11/2024Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.
Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa
Kiến thức 13:29 02/11/2024Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.
Nói về Tứ niệm xứ
Kiến thức 10:40 02/11/2024Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.
Xem thêm