Niệm Phật phải phát nguyện vãng sanh Cực Lạc
Yếu chỉ của pháp môn niệm Phật là Tín, Nguyện, Hạnh, muốn vào cửa pháp nầy, trước tiên hành giả phải tin cõi Cực lạc là có thật, và đức A-di-đà luôn luôn hộ niệm, sẵn sàng tiếp dẫn chúng sinh nào xưng niệm danh hiệu của Ngài.
Sau khi đã có lòng tin, thì hành giả phải phát tâm chân thiết cầu thoát ly khỏi Ta bà đầy khổ lụy và chướng duyên, mà mong muốn sinh về miền Cực lạc an vui, sự thanh tịnh trang nghiêm vô lượng để tiến tu, hoàn thành mục đích tự độ và độ tha. Đó là Nguyện. Và sau khi đã phát nguyện như thế, lại cần phải thiết thực xưng niệm danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật để được tiếp dẫn. Đây gọi là Hạnh.
Ngẫu Ích đại sư dạy rằng: “Được vãng sinh hay chăng, toàn bộ Tín Nguyện có hay không, phẩm vị thấp hay cao, đều bởi hành trì sâu hoặc cạn. Nếu không Tín Nguyện, thì dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sinh”.
Nếu Tín Nguyện bền chắc, thì khi lâm chung chỉ xưng danh hiệu mười niệm hay một niệm cũng được vãng sinh. Trái lại, việc hành trì tuy vững như vách sắt tường đồng mà Tín Nguyện yếu kém, thì kết quả chỉ hưởng được phước báo nhơn thiên mà thôi.
Đức Phật và pháp môn niệm Phật
Như vậy, sự phát nguyện thật vô cùng cần thiết và quan trọng. Cho nên, đức Bổn sư cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong kinh A-di-đà: “Lại nữa Xá-lợi-phất, chúng sinh được về cõi Cực lạc đều là hàng A-bệ Bạt-trí, trong ấy có rất nhiều bậc nhất sinh bổ xứ, số lượng rất đông, không thể dùng toán số mà tính biết được, chỉ có thể lấy số “vô lượng vô biên tăng kỳ” để nói mà thôi. “Xá-lợi-phất! Chúng sinh nghe rồi phải nên phát nguyện cầu sinh về cõi nước kia. Bởi tại sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện nhân như thế, đồng họp một chỗ.”
“...Xá-lợi-phất! Ta thấy sự lợi ích đó, nên nói lời nầy: Nếu có chúng sinh nào nghe lời nói đây phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ ấy”.
“...Xá-lợi-phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về nước Phật A-di-đà, thì những người đó hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh, đều được không thối chuyển nơi quả vị vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở cõi nước kia. Cho nên, Xá-lợi-phất các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có lòng tin thì phải nên phát nguyện cầu sinh về cõi nước kia...”.
Như trên đây, chúng con thấy đức Thích Ca mãi nhắc đi nhắc lại hai chữ “phát nguyện” lời và ý đều khẩn thiết. Cho đến phần kết thúc kinh A-di-đà, Ngài cũng vẫn đôi ba phen bảo chúng con phải phát nguyện cầu vãng sinh Cực lạc.
Tại sao như vậy? Vì nếu được về cõi Cực lạc sẽ được ở cảnh giới vô cùng mầu nhiệm trang nghiêm, được thân hình kim cương, đủ ba mươi hai tướng tốt, dứt hẳn nỗi khổ sinh gìa bịnh chết, được gần gũi chư Phật và chư đại Bồ-tát, được hội họp với các bậc thượng thiện nhân, được thần thông tam muội, không còn thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Bởi trí tuệ của Phật nhìn thấy rất nhiều sự lợi ích như thế, nên Ngài mới vận lòng từ bi, vì cứu độ mọi loài hữu tình mà khuyên nên phát nguyện vãng sinh Cực lạc. Lòng bi mẫn của đức Thích Ca Thế Tôn thật là vô lượng, khiến chúng con hôm nay đọc lại lời giáo huấn tha thiết của Ngài, mà tâm tư không khỏi xúc động. Và y theo lời dạy của đức Bổn sư, đệ tử chúng con từ nay nhận thức rõ ràng rằng: “Niệm Phật thì phải phát nguyện, cầu vãng sinh thế giới Cực lạc”.
Chúng con cùng nhau chấp tay, quỳ xuống, một lòng cầu vãng sinh.
“Cúi lạy phương Tây, nơi cõi An lạc.
Tiếp dẫn chúng sinh Đại đạo sư.
Nay con phát nguyện nguyện vãng sinh.
Nhờ lượng từ bi thương nhiếp thọ”.
Đệ tử chúng con khắp vì bốn ơn ba cõi pháp giới chúng sinh cầu đạo Bồ-đề nhất thừa của Phật, chuyên tâm trì niệm, hồng danh đức Phật A-di-đà, nguyện sinh Tịnh độ.
Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành. Nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối.
Con và chúng sinh, khoáng kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết nguyện đều tiêu diệt.
Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành Chánh giác, thề độ chúng sinh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng A-di-đà Phật, được chơi cõi Tịnh, của đấng Đạo sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác diệu tâm, sáng bừng mở rộng, tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền.Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả bệnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định, Phật A-di-đà và Quán Thế Âm cùng Đại Thế Chí cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây phương cảnh thật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ-đề tâm.
Bấy giờ thân con, ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sinh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ-tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng vô sinh Nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật. Nhờ ân thọ ký, được thọ ký xong, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm ngàn, môn đà ra ni, tất cả công đức, thảy đều thành tưụ. Từ đó về sau, không rời Cực lạc, trở lại Ta-bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sinh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sinh Tây phương, lên ngôi bất thoái.
Nguyện lớn như vậy, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận, nghiệp và phiền não, thảy đều vô tận. Đại nguyện chúng con, cũng không cùng tận. Nay con lạy Phật phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ơn khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành chủng trí.
Phát nguyện xong rồi, đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy y và đảnh lễ chư Phật:
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Đại Từ Bi Phụ A-di-đà Phật, vị Đạo sư tiếp dẫn vãng sinh Cực lạc.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát.
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ-tát.
HT. Thích Thiền Tâm
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Một lần nổi giận, ba ngày chưa hồi phục
Kiến thức 10:30 15/11/2024Có người ra bên ngoài nói lời thị phi hủy báng tôi, có đồng tu đến nói với tôi, người đó nói xấu thầy, hủy báng thầy. Họ vừa mở lời, tôi liền không cho họ nói thêm nữa, họ cảm thấy vô cùng kinh ngạc! Họ hỏi, vì sao vậy?
Tu ba loại nhân, nhất định cảm được ba loại quả báo
Kiến thức 09:00 15/11/2024Trước lúc thiên tai chưa xảy ra, nên cố gắng tu nhân, như vậy mới là hành động đúng đắn nhất. Nên giữ tâm cho tốt, làm việc tốt, nói lời hay, làm người tốt. Như vậy nhất định có quả báo tốt đẹp.
Chuyển đổi số phận
Kiến thức 08:30 15/11/2024Đại sư Vân Cốc bảo: Những người không có ý chí, không chịu sửa đổi, chẳng biết tu tâm, làm phúc, lại gây nhân xấu thì bị số mạng cột chặt không thể thoát ra. Nếu ông quyết chí, ta dạy ông phép cải đổi số mệnh, chuyển xấu thành tốt, hưởng phú quý muôn đời, nếu cầu giải thoát, sẽ thành tựu giác ngộ.
Các tôn hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Kiến thức 21:00 14/11/2024Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật, một trong những tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới trong lịch sử cũng như hiện nay. Đức Phật Tổ có nhiều tôn hiệu khác nhau. Tất cả những tôn hiệu này đều xuất hiện sau khi Ngài tu hành đắc đạo và thuyết pháp độ chúng.
Xem thêm