Chúng ta đã biết Địa Tạng không phải là một nhân vật thần thoại, Địa Tạng có thật bây giờ và có thể đang ở trong tù để giúp những người bạn tù. Do đó chúng ta không nên phí thì giờ vào những chuyện vô ích không đâu vì chúng ta có thể đóng vai của Bồ Tát Địa Tạng ngay bây giờ và ở đây, đưa cánh tay ra mà tiếp xúc với những khổ đau không bờ không bến trong những địa ngục đang có mặt ở khắp nơi trên thế giới.
Trái lại chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt tới đức vững chãi và kiên trì của đất. Bồ tát Địa Tạng có hai đức lớn là đức vững chãi và đức kiên trì. Có vững chãi thì mới kiên trì được. Kiên trì là không bỏ cuộc một cách dễ dàng, khó khăn cách mấy cũng bám lấy. Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng. Đất kiên và hậu nghĩa là vững và dày. Quảng hàm tàng là chứa đựng nhiều, trong ấy có tình thương, sự hiểu biết, có thể nâng đỡ, có thể làm chỗ nương tựa. Đó là lời khen ngợi Bồ Tát Địa Tạng. Chúng con nguyện tu học để đạt tới đức vững chãi và kiên trì của đất để trở thành trung kiên và không kỳ thị như đất và cũng được như đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.
Đất là không kỳ thị, bởi khi ta đổ phân rác vào đất thì đất cũng chấp nhận, đổ sữa vào đất thì đất cũng chấp nhận, vì đất chuyển hóa được sữa, đất chuyển hóa được phân rác. Đất có khả năng xả, nghĩa là không kỳ thị, không phân biệt, chấp nhận được tất cả để có thể chuyển hóa. Ta hãy tự hỏi ta có khả năng làm chỗ nương tựa cho người khác hay không khi ta không có đức vững chãi, không có chiều dày. Vậy nếu ta thấy con người ta còn mong manh, đức ta còn mỏng, ta chưa có đủ vững chãi thì ta phải tu tập như thế nào để càng ngày ta càng có thêm vững chãi mà làm chỗ nương tựa cho những người khác.
Đây là một lá thư nhận được từ địa ngục gửi ra. Lá thư này của anh Nicolas người Mỹ. Lá thư gửi ra được là nhờ một Địa Tạng đã đưa vào địa ngục cuốn “The joyful path” và cuốn “Peace is every step”. Các bạn thiền sinh Hoa kỳ đã phát tâm bồ đề mua những cuốn sách ấy gửi vào trong các nhà tù. Có những tù nhân đọc được những cuốn sách ấy đã bắt đầu tu tập và chuyển hóa. Lá thư của Nicolas là một trong hàng ngàn lá thơ gửi tới. Nicolas đã bị kết án tử hình và đang chờ ngày lên ghế điện. Anh cũng đã có dịp được đọc cuốn “Living Buddha Living Christ” trong tù. Nhà tù này ở tiểu bang Pennsylvania. Thơ viết bằng tiếng Mỹ. Đây là bản dịch:
Ngày 28 tháng 12 năm 1997
Thưa Thầy,
Con không biết là lá thư này tới được tay Thầy không. Nhưng con mong rằng có một người nào sống cùng địa chỉ của Thầy mở được lá thư này ra mà đọc để cho con bớt khổ. Địa chỉ Thầy con tìm ra sau cuốn “Living Buddha Living Christ” mà người ta cho con. Con đã bị lên án tử hình mười bảy năm rồi và tuy rằng cuộc đời của con trong thời gian đó có bao nhiêu khổ đau, bao nhiêu thất vọng, nhưng trong con lại có ý chí muốn vượt thắng những vết thương và những cái sẹo tâm lý và tình cảm đã hằn lên tâm hồn. Những vết thương đó con đã mang theo vào trong tù và chúng đã được chất chứa và lớn lên trong tù.
Con đã từng tranh đấu, đã từng vùng vẫy rất khó khăn với sự thù hận trong con. Có những lúc con nghĩ con không thể vượt thoát được. Những lúc đó con cảm thấy bị chúng đè bẹp và nghiến nát. Nhưng lạ thay, con đã học được cách sống sót từ những giờ phút khổ đau quằn quại đó, những giờ phút hờn oán hận thù ấy. Và ước muốn duy nhất bây giờ của con là có thể sống sót được mà không bị điên loạn bởi những hận thù kia, hận thù đối với những người đã bắt con, đã hành hạ con, đã làm cho con khổ đau đến mức cùng tận. Con không biết tại sao con lại có thể làm được chuyện đó, nghĩa là con có thể vượt thoát được những giờ phút mà con sắp hóa điên, để còn có thể giữ được sự an lành trong con.
Con đâu có bao giờ nghĩ là con hơn ai, hơn người bên cạnh con chút nào đâu. Con chỉ là một con người tầm thường và con rất biết ơn dù sống trong tù qua mười bảy năm, con còn giữ được cái thăng bằng trong con và con chưa trở thành điên loạn. Với niềm biết ơn đó, con đã có thể trân quý được những gì xảy ra trong đời sống hằng ngày của con. Mỗi khi con nhìn mặt trời lặn, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Chỉ cần ngồi sau khung cửa sắt nhìn ra ngoài, con cũng có khả năng hưởng thụ được cái đẹp của cảnh mặt trời lặn. Trong nhà tù trước, con đã ở mười hai năm và ngày nào con cũng chỉ được nhìn bức tường. Khi con được chuyển sang nhà tù này, cánh cửa sổ trong nhà tù mới đã cho phép con thấy được một phần của thành phố với rất nhiều cây xanh. Lần đầu tiên được tiếp xúc với cây cối và một phần của thành phố, con cảm động quá cho đến nỗi con đã khóc nức nở.
Khi con đọc cuốn “Peace is every step” của Thầy và nghe được giáo pháp an trú trong hiện tại thì con lập tức hiểu ngay được giáo lý đó. Lâu nay con có thái độ thù ghét các tôn giáo tại tôn giáo nào cũng có khuynh hướng loại trừ những người không đi theo mình. Vì thế nên con đã gắng đi vào trong con, đã theo đường nội hướng để mong tìm sự an lành bên trong mà thôi. Con biết rằng con chỉ mới bắt đầu học Phật thôi, nhưng con đã có thể thấy được cái đẹp đơn giản trong sự đi tìm và chứng nhập với giây phút hiện tại và nhu yếu phải sống trong chánh niệm.
Đời sống trong tù của con rất khó khăn, rất lao khổ, nên con đã học được phương pháp biết trân quý những giây phút ngắn ngủi và nhờ vậy mà những lo lắng, sợ hãi về tương lai và cái chết không làm cho con điên loạn nữa và không có thể tiêu diệt được tính người trong con. Nhờ vậy mà bây giờ con đã học được cách hành xử như một người phật tử. Con tin rằng nếu con tiếp tục thực tập thì con sẽ tìm được sự cải hóa từ từ cho đời sống tâm linh của con. Điều con mong ước sâu sắc nhất của con là dù con có bị hành xử một cách tàn tệ và bạo động đi nữa thì con cũng hy vọng rằng từ cái rác đó con có thể biến nó thành hoa và con có thể tìm ra cái an bình trong con.
Và trong khi đi tìm sự an bình trong con, con có thể chấp nhận được con và con có thể sống rất thoải mái với chính con. Ước mơ của con là một ngày nào đó con được thả ra, và có người tới gặp con, nhìn con một lát rồi nói: “À, anh này đã ở trong tù hai mươi năm với tư cách của một người tử tội vậy mà bây giờ xem cũng còn được quá chứ”. Con chỉ có ước mơ có như vậy thôi. Con viết cho Thầy lá thư này, hy vọng rằng lời nói của con có thể chia sẻ được với Thầy cái chất người ở trong con, không phải với tư cách của một người tử tù đợi ngày hành quyết, nhưng với tư cách một người đã được gửi vào đây để học hỏi và lớn lên trong một hoàn cảnh không có một hy vọng tối thiểu nào cho tương lai.
Xin Thầy hãy bảo trọng sức khỏe của Thầy, hoặc ai đó đang đọc lá thư này cũng nên tự bảo trọng lấy mình.
Cám ơn Thầy hoặc ai đó đã đọc những lời này của con.
Nicolas
Sau khi đọc xong lá thư này, tôi có nhờ Sư cô Thục Nghiêm gửi cho anh ta một cuốn “Thiền hành yếu chỉ” và có viết cho anh một lá thư ngắn như sau:
Dear Nicolas,
Thank you for writing. It is very encouraging for us here in Plum Village to know that you are practicing being in the present moment and giving a chance for the best in you to manifest. These jewels are seeds transmitted to you by spiritual and blood anscestors. True freedom is the freedom from afflictions such as despair, anger and hate. There are so many in the world who are not free and who suffer tremendously. They do not have the space within.
(Tôi muốn nói rằng nếu trong tù mà anh chưa điên loạn và anh còn giữ được chất người trong anh và anh không hiểu tại sao anh làm được như vậy thì anh nên biết rằng cái châu báu đó là do tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống đã truyền cho anh. Nhờ đó mà bây giờ anh còn sống sót được. Và tuy là anh ở trong tù mà có tự do nhiều hơn chúng tôi, những người ở ngoài này nhưng đang bị hận thù, thèm khát và hối hận giam giữ).
We are trying to send you a small book on walking meditation. We hope you can practice mindful walking in your cell and also outside. Please invite others to join you. Try to help other inmates, sharing with them your peace and your capacity to enjoy the wonders of life that are available around and inside of you.
(Chúng tôi gửi cho anh tập “Thiền hành yếu chỉ”. Anh thực tập đi, trong phòng giam của anh và nếu được thì thực tập ở bên ngoài. Anh có thể mời những người bạn tù khác thực tập với anh, giúp đỡ những người đó và làm cho họ nếm được chút ít an lạc và hạnh phúc mà anh có trong khi tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống).
We will be glad to learn about your success. You can be a truly free person wherever you are.
(Chúng tôi ở đây sẽ rất sung sướng nếu được biết anh thực tập thành công ở trong đó. Anh có thể là một người tự do dù anh đang ở trong tù).
Nurture and develop your compassion and understanding and helping other people around you. That will make you happy and bring a lot of joy to all of us here. Please feel free to write to Parallax or Community of Mindful Living to ask for more books and tapes on the teaching. When you write us please address yourself to sister Thục Nghiêm. She is a nun of American origin, so she can write and read English well. She will represent all of us.
Take good care. Love.
Thầy
(Hãy nuôi dưỡng chất liệu từ bi và hiểu biết trong anh, điều này sẽ làm cho anh tự do và hạnh phúc. Và nếu cần anh cứ viết thư cho nhà xuất bản Parallax hay Community of Mindful Living để xin thêm sách và băng giảng. Viết thư cho chúng tôi thì anh đề cho sư cô Thục Nghiêm vì sư cô là người Mỹ, có thể hiểu và viết tiếng Anh một cách rất dễ dàng, sư cô sẽ đại diện tất cả chúng tôi.
Hãy bảo trọng.
Thầy).
Đây là một lá thư khác từ trong nhà tù gửi ra. Nhà tù này ở tiểu bang Washington. Đây là một người tù gốc Việt.
Đầu thư con xin chúc Thầy được dồi dào sức khỏe và mọi sự được thuận lợi ở Làng Mai. Đệ tử tên là Hùng, là một người rất ngưỡng mộ Thầy và hiện đang cư ngụ tại Airway Correction Center. Trong thời gian qua, đệ tử nhờ ơn những cuốn sách của Thầy chỉ dạy mà đã hấp thụ được rất nhiều về đời sống tươi đẹp và thương yêu. Thời gian xa cha mẹ hiền và bỏ nước ra đi, đệ tử đây đã đi vào con đường tội lỗi. Vì quá ham vui nên đệ tử đã quên mất con đường về nhà mà tổ tiên đã chỉ bảo cho.
Nhờ ơn Thầy chỉ dạy qua các cuốn sách mà đệ tử đã may mắn được đọc trong tù, cuốn “Being Peace” và cuốn “A Joyful Path”. Những cuốn đó đã giúp cho đệ tử rất nhiều như sự thực tập trở về nguồn gốc và đi trên lối đi của tổ tiên. Trong dòng họ của đệ tử ai nấy đều hướng về Phật giáo và có đôi người đã từng xuất gia. Đệ tử đội ơn Thầy đã mở rộng tầm mắt của đệ tử và mở đường cho đệ tử trở về với con đường của tổ tiên. Nhờ cuốn “A Joyful Path”, trang 14, mà đệ tử đã có thể viết cho ba của đệ tử một lá thư để nối lại tình cha con. Ba đệ tử là một người say mê rượu chè và thường đánh đập má đệ tử lúc đệ tử còn nhỏ. Lớn lên con không hết lòng thương ba con.
Qua cuốn sách của Thầy con mới thấy được những đau khổ mà ba con đã chịu đựng và con đã có thể viết thư để hòa giải với ba con và con biết phải làm thế nào để độ cho gia đình con và để cho mọi người có thể hiến tặng nhiều tình thương cho nhau. Đệ tử xin hết lòng cảm tạ công lao của Thầy đã bỏ ra để soạn những cuốn sách quý báu cho con và cho tất cả mọi người. Những cuốn sách của Thầy đã giúp cho rất nhiều người ngay ở trong nhà tù này. Con cũng đồng thời xin thay mặt cho những anh em nào đến sau mà cảm tạ ơn Thầy đã biếu cho những cuốn sách quý đó để chúng con có thể tu luyện trong tù.
Con xin chúc cho toàn thể chúng sinh và cho gia đình con nhiều điều an lành.
Hùng.
Chúng ta không cần đi đâu xa. Chúng ta chỉ cần ở ngay tại chỗ thôi mà vẫn có thể tiếp xúc được với địa ngục. Cánh tay của chúng ta có thể với ra rất dài. Ở bên Anh, tăng thân Anh và Việt của chúng ta cũng đã gửi rất nhiều bản tin, những tờ tạp chí, những cuốn sách viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh cho các nhà tù. Và các bạn ở bên Đức cũng đã bắt đầu làm như vậy. Trong khi đó ở bên Mỹ có rất nhiều người đang thực tập thiền quán ở trong tù và nhờ đó họ bớt đau khổ rất nhiều. Có một người thực tập thiền hành trong một nhà tù ở California đã viết thư cho Thầy và nói:
“Con đứng ở trên đầu cầu thang, đang thở và định đi xuống cầu thang có chút việc. Con thấy có những người tù khác đang đi lên và đi xuống. Họ chạy như bị ma đuổi và nhìn cách đi đứng của họ con thấy được tất cả những đau khổ của họ. Con thấy họ như những trái bom sắp nổ. Con ao ước rằng người nào cũng có thể leo lên cầu thang và bước xuống cầu thang một cách nhẹ nhàng và chánh niệm như con để cho họ bớt khổ”.
Có một anh chàng đã viết được nguyên một cuốn sách về sự thực tập của mình ở trong tù và sách đã được một nhà xuất bản tên là Padma Publishing House in ra. Anh ta đã có cơ hội được quy y với một Thầy người Tây Tạng. Thầy đó đã vào trong tù để truyền tam quy và ngũ giới cho anh. Anh tên là Jarvis Master. Trong sách này anh kể nhiều chuyện vui. Có một hôm anh tù ở phòng bên đập cửa và chửi ầm lên, trong khi Jarvis đang thực tập: thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Anh Jarvis phải ngưng thực tập vì anh chàng bên kia đập phá quá. Chàng kia đang nổi điên. Chàng la: “Thằng chó chết nào đang hút thuốc bên kia, mày phải cho tao nửa điếu”.
Anh ta chắc là Jarvis đang hút thuốc mà không chịu chia cho nó hút. Nhưng Jarvis đã bỏ thuốc từ khi mới bắt đầu tập thiền. Anh ta lớn tiếng với người bạn tù bên kia: “Mày là thằng chó chết nào? Tao đã bỏ thuốc từ lâu rồi. Mày xin thuốc hút mà la lối như vậy thì chó nào mà cho. Nếu mày dễ thương nói năng có lễ độ thì họa may tao cũng tìm cách kiếm thuốc cho mày. Anh bên kia nghe như vậy thì ngưng đập phá. Jarvis tuy đã bỏ thuốc lâu rồi nhưng vẫn còn giữ một gói thuốc rê. Anh tính cho, nhưng anh nghĩ là chỉ nên cho một chút ít thôi.
Anh lấy ra một tờ giấy, gói lại một phần nhỏ của gói thuốc rồi chuyền qua cho người bạn tù. Tờ giấy anh ta dùng để gói thuốc là một tờ photocopy trang đầu của sách “Being Peace” mà tác giả là Thầy Nhất Hạnh. Chính nhờ nhận được từ ngoài gửi vào một bản photocopy của sách này mà anh Jarvis mới biết thực tập thiền. Anh ta tự nói là nếu mình gửi cho anh chàng kia trang một, có thể nó sẽ đọc và sẽ hưởng được chút ít pháp bảo. Anh bạn tù bên kia có vẻ rất sung sướng khi nhận được gói thuốc của Jarvis.
Ba bốn ngày sau Jarvis chuyền qua một ít thuốc nữa và dùng trang thứ hai của sách “Being Peace” để gói. Rốt cuộc ước mơ của Jarvis đã thành tựu, vì khi đã chuyền hết cả cuốn sách qua rồi thì anh bạn tù trở nên rất im lặng dễ thương, vì anh cũng đang thực tập thiền ở khám bên kia. Từ đó về sau phòng tù bên phải của Jarvis rất yên, vì người kia không những đã nhận được thuốc, được tình thương mà còn nhận thêm giáo lý trong sách “Being Peace” nữa. Sau đó mấy tháng anh kia được thả. Ngày được phóng thích anh đi qua và dừng lại để cám ơn Jarvis. Hai người, một người ở trong, một người ở ngoài, cùng đọc lên một câu trong sách “Being Peace”: “If you are peaceful, if you are happy, if you can smile, then everyone in our family in our entire society will benefit from our peace” (Nếu anh tĩnh lặng, hạnh phúc, nếu mà anh có thể mỉm cười thì tất cả mọi người ở trong gia đình của anh và ở trong xã hội của anh đều được thừa hưởng sự tĩnh lặng và hạnh phúc của anh).
Hai bên dị khẩu đồng âm cùng đọc lớn lên câu đó vì cả hai đều thuộc nằm lòng câu kia, trước con mắt ngơ ngác và thán phục của những người cai tù. Cuốn sách của Jarvis viết nhan đề là “Finding Freedom: writngs from Death row”, do nhà xuất bản Padma Publishing ấn hành năm 1997.
Chúng ta đã biết Địa Tạng không phải là một nhân vật thần thoại, Địa Tạng có thật bây giờ và có thể đang ở trong tù để giúp những người bạn tù. Do đó chúng ta không nên phí thì giờ vào những chuyện vô ích không đâu vì chúng ta có thể đóng vai của Bồ Tát Địa Tạng ngay bây giờ và ở đây, đưa cánh tay ra mà tiếp xúc với những khổ đau không bờ không bến trong những địa ngục đang có mặt ở khắp nơi trên thế giới.
(Pháp thoại ngày 15 tháng Giêng năm 1998 tại Xóm Mới)
Quán Nguyện
Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con xin nguyện ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi.
Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới.
Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống. Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự. Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người. Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, thì tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài.
Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn bị lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể được trung kiên và không kỳ thị như Đất và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Nguồn: Làng Mai TIN, BÀI LIÊN QUAN: