Tâm buông xả là tâm an lạc
Kinh Phật cho chúng ta biết rằng có ba hình thái cảm thọ hay cảm giác phát sinh liên quan đến sinh hoạt xúc chạm hàng ngày của con người. Đó là lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ hay cảm giác khả ý, cảm giác bất khả ý và cảm giác khả ý bất khả ý.
Thông thường, ba loại cảm thọ hay xúc cảm này phát sinh tùy thuộc vào tính chất sự xúc chạm giữa các căn và các trần. Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp khả ái thì lạc thọ hay cảm giác khả ý phát sinh, nếu chúng tiếp xúc với các đối tượng không khả ái thì khổ thọ hay cảm giác bất khả ý phát sinh, nếu tiếp xúc với các đối tượng khả ái không khả ái thì bất khổ bất lạc thọ hay cảm giác khả ý bất khả ý phát sinh. Có thể hiểu rằng con người là sinh vật sống theo cảm xúc, biểu lộ và phản ứng tùy thuộc cảm xúc, bị thôi thúc bởi cảm xúc; do đó cảm thọ hay cảm xúc đóng vai trò rất lớn trong đời sống con người. Nó dẫn dắt và chi phối hầu như toàn bộ cuộc đời con người bởi tính chất gắn kết đặc biệt của nó trong cơ cấu vận hành của con người hay ngũ uẩn. Cảm thọ là các hiện tượng duyên sinh, sinh khởi do duyên xúc chạm, thường xuyên thay đổi, nhưng nó tác động rất lớn lên đời sống tinh thần hay tâm thức của con người. Nó khiến cho tâm thức con người không ngừng quay cuồng trong tư thế luôn luôn phản ứng dao động, biểu hiện qua việc khao khát tìm cầu (lạc thọ) hoặc phản kháng bực bội (đối với khổ thọ) hoặc mê mờ thụ động (đối với bất khổ bất lạc thọ). Theo quan điểm của đạo Phật, sự phản ứng của tâm thức trước các sự kiện xúc chạm hay thói quen tìm cầu lạc thọ, phản kháng khổ thọ hay vô thức đối với bất khổ bất lạc thọ chính là lý do khiến cho tập khí tham, sân, si dấy khởi và tăng trưởng, cũng có nghĩa là khổ đau sinh khởi và tăng trưởng. Tâm càng phản ứng hoặc quay cuồng theo cảm thọ thì tham, sân, si càng có điều kiện tăng trưởng. Luận về nguồn gốc khổ đau do duyên xúc chạm hay do sự phản ứng mê mờ của tâm thức đối với các cảm thọ dẫn đến tham, sân, si dấy khởi và tăng trưởng, Đức Phật nêu rõ:
“Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy. Vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra. (Tương tự như trên, do duyên tai và do duyên các tiếng, do duyên mũi và do duyên các hương, do duyên lưỡi và do duyên các vị, do duyên thân và do duyên các xúc, do duyên ý và do duyên các pháp)”1.

Như vậy, sự mê mờ về tính chất duyên sinh, vô thường của cảm thọ hay thói quen phản ứng của tâm thức đối với các cảm giác phát sinh do duyên xúc chạm giữa các căn và các trần chính là lý do khiến cho tham, sân, si - gốc rễ của khổ đau - sinh khởi và tăng trưởng. Từ đây, luận đề giải thoát khổ đau tiếp tục được nêu ra. Nếu lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ phát sinh mà không động tâm, không phản ứng dao động, hoặc đam mê thích thú hoặc giận dữ bực phiền hoặc mê mờ thụ động, thì bấy giờ tham, sân, si - cội rễ của khổ đau - không có lý do sinh khởi và tăng trưởng. Đây chính là hướng đi của tâm giải thoát, hướng đi của trí tuệ, hướng đi của sự nhận thức và quán sát thường xuyên về tính chất duyên sinh, không thường hằng của cảm thọ dẫn đến việc buông bỏ thói quen phản ứng đối với các loại cảm xúc. Không phản ứng hay tâm không duyên theo các cảm thọ thì tham, sân, si không có lý do sinh khởi và tăng trưởng. Đức Phật xác nhận:
“Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra. (Tương tự như trên, do duyên tai và do duyên các tiếng, do duyên mũi và do duyên các hương, do duyên lưỡi và do duyên các vị, do duyên thân và do duyên các xúc, do duyên ý và do duyên các pháp)”2.
Nhìn chung, cảm thọ là hiện tượng tâm thức, phát sinh do duyên xúc chạm giữa các căn và các trần. Nó gắn kết mật thiết với đời sống của mỗi cá nhân đến độ mọi hoạt động của con người hầu như là sự biểu hiện và thôi thúc của cảm thọ. Nó kích thích và tạo nên các trạng huống đối cực trong đời sống con người như thích thú hay không thích, hài lòng hay bất mãn, vui hay buồn, sướng hay khổ, thương hay ghét. Nó đưa đẩy con người trôi dạt từ thái cực này sang thái cực khác trong thế giới của những cảm xúc bấn loạn, khiến cho con người cứ mãi quay cuồng, không tỉnh táo, không sáng suốt, không yên ổn. Vì cảm thọ là hiện tượng duyên sinh, biến đổi liên tục; do đó con người (chủ thể xúc cảm) cũng được thấy hầu như thay đổi thường xuyên hoặc có những “biểu hiện thất thường”. Tất cả là do duyên cảm thọ hay do hệ quả của sự mê mờ chạy theo cảm xúc. Vì vậy, sự hiểu biết đúng đắn về cảm thọ là cơ sở khiến cho tâm trở nên tỉnh táo, sáng suốt, bớt quay cuồng, bớt phản ứng, bớt rơi vào các đối cực, cũng đồng nghĩa là con người dần dần thoát khỏi mọi hệ lụy khổ đau do không còn quay cuồng mê đắm trong thế giới rối loạn của các xúc cảm sai biệt. Kinh Phật đề nghị giải pháp nhìn nhận và xử sự thế này đối với các loại cảm thọ3:
“Ở đây, này Ànanda, vị Tỷ-kheo do mắt thấy sắc, khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên, dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại. Này Ànanda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại.
Lại nữa, này Ànanda, Tỷ-kheo do tai nghe tiếng khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại. Này Ànanda, như một người lực sĩ có thể búng tay một cách dễ dàng; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy và xả tồn tại.
Lại nữa, này Ànanda, Tỷ-kheo do mũi ngửi hương khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại. Này Ànanda, như những giọt nước mưa chảy trượt đi, không có đọng lại trên một lá sen hơi chúc xuống; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy và xả tồn tại.
Lại nữa, này Ànanda, Tỷ-kheo do lưỡi nếm vị khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tinh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại. Này Ànanda, như một người lực sĩ có thể nhổ ra một cách dễ dàng cục đờm đọng lại trên đầu lưỡi; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy và xả tồn tại.
Lại nữa, này Ànanda, Tỷ-kheo do thân cảm xúc khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại. Này Ànanda, ví như một người có thể duỗi ra cánh tay được co lại của mình, hay co lại cánh tay duỗi ra của mình; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy và xả tồn tại.
Lại nữa, này Ànanda, Tỷ-kheo do ý nhận thức các pháp khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy, và xả tồn tại. Này Ànanda, như một người cho nhỏ hai ba giọt nước trong một cái chậu bằng sắt đun nóng cả ngày, các giọt nước rơi rất chậm nhưng chúng bị tiêu diệt, biến đi rất mau; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt trong vị ấy và xả tồn tại”.
Phật nói đến tâm buông xả như là cách thức vượt qua mọi tác động và ảnh hưởng của cảm thọ. Đó là thái độ sáng suốt đưa đến an lạc. Xả là trạng thái tỉnh táo, trong sáng, bình thản, không thiên vị của tâm, phát sinh nhờ kết quả nội quán, thấy rõ các cảm thọ (các hiện tượng) là duyên sinh, hữu vi, vô thường, khổ, vô ngã dẫn đến việc buông bỏ tâm ái luyến, phản kháng, cố chấp đối với các cảm thọ. Đó là công năng hay kết quả của trí tuệ, phát sinh nhờ chuyên tâm hành trì chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Nói cách khác, đó chính là trạng huống của tâm giải thoát, được thành tựu nhờ công phu thiền quán kiên trì và sâu sắc, thấy rõ lý sinh diệt, nhận ra tính chất hữu vi, vô thường, bất an của cảm thọ đưa đến cảm thức nhàm chán, ly tham, buông bỏ mọi cảm xúc, không còn tìm cầu, phản ứng hay nắm giữ bất kỳ ý tưởng hay cảm thức nào liên hệ đến sự xúc chạm. Trong phần giảng dạy cho du sĩ Dìghanakha, Thế Tôn xác chứng về công năng thiền quán các cảm thọ dẫn đến tâm ly tham, buông xả, giải thoát, an lạc:
“Này Aggivessana, lạc thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Này Aggivessana, khổ thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Này Aggivessana, bất khổ bất lạc thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Thấy vậy, này Aggivessana, vị Đa văn Thánh đệ tử yểm ly lạc thọ, yểm ly khổ thọ, yểm ly bất khổ bất lạc thọ. Do yểm ly, vị ấy không có tham dục. Do không tham dục, vị ấy được giải thoát. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm. Sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”4.
Chú thích:
1. Kinh Sáu sáu, Trung Bộ.
2. Kinh Sáu sáu, Trung Bộ.
3. Kinh Căn tu tập, Trung Bộ.
4. Kinh Trường Trảo, Trung Bộ.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Phỉ báng Phật và giáo pháp tội nặng ra sao?
Phật giáo thường thứcPhỉ báng Phật và giáo pháp được xem là một trong những nghiệp bất thiện rất nặng, không phải vì xúc phạm một đấng siêu nhiên, mà vì hành vi ấy trực tiếp hủy hoại nguồn sáng dẫn đường cho con người thoát khổ.
Hiểu như thế nào về câu "Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến"?
Phật giáo thường thức“Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến” thường được nhắc đến như một lời nhắc nhở sống an nhiên giữa cuộc đời nhiều biến động.
Phàm làm việc gì cũng tuỳ duyên chớ nên phan duyên
Phật giáo thường thứcChúng ta phải ghi nhớ một nguyên tắc quan trọng là: phát nguyện phải chân thật, tiếp tục huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh, phải ghi nhớ là tùy duyên chứ không phan duyên. Khi duyên chưa hiện tiền thì không miễn cưỡng, không cầu. Không đi tạo cơ hội, nếu tạo điều kiện, vậy là sai rồi. Có ý niệm tạo cơ hội, tạo điều kiện, thì tâm không thanh tịnh, sẽ không như pháp.
Điều gì xảy ra khi ta trục lợi bói toán, giải nghiệp?
Phật giáo thường thứcTrong đời sống tâm linh của người Việt, tín ngưỡng và niềm tin là nhu cầu có thật.
Xem thêm














