Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ hai, 31/10/2022, 01:09 AM

Ý nghĩa hồng danh sám hối Đức Phật

Muốn đem pháp Phật vào tâm, phải sám hối cho tiêu nghiệp. Còn trần lao nghiệp chướng nhiều, không thể tiếp thu pháp Phật được.

Hồng danh sám hối Đức Phật là gì?

Tu Pháp hoa, sám hối tội căn là pháp rất quan trọng, thuộc phần Tích môn theo Trí Giả đại sư. Ngài dạy chúng ta pháp Ngũ hối, nghĩa là nương vào năm pháp tu mà ngài trích ra từ mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát. Trong Ngũ hối, phần thứ nhất, Trí Giả đại sư dạy rằng trước khi lạy Phật sám hối, phải tán thán Phật. Nhìn thấy Phật hoàn toàn tốt lành, không ai tốt hơn Phật, mỗi vị Tổ sư thường sáng tác một bài kệ để ca ngợi Phật. Bài kệ tiêu biểu mà chúng ta thường tụng là:

Pháp vương vô thượng tôn

Tam giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Đạo sư

Tứ sanh chi từ phụ

Ư nhứt niệm quy y

Năng diệt tam kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Chỉ một niệm tâm nghĩ đến Phật mà tất cả nghiệp chúng ta đã tạo trong ba a-tăng-kỳ kiếp liền tiêu mất. Nghĩ đến Phật, không nhớ gì cả, nhứt thời nghiệp mất. Trong khoảnh khắc đó, chúng ta không còn buồn, giận, lo, sợ; tâm được thanh tịnh, nhận được Phật lực gia bị, cảm thấy như ở Niết-bàn, an vui giải thoát. Chỉ một niệm tâm nghĩ về Phật mà nghiệp tiêu tan nhanh chóng như vậy thì sao không nghĩ nhớ Phật; nghĩ đến người xấu ác hại chúng ta chi cho khổ. Chỉ nghĩ đến Phật thôi là tốt nhất. Nghĩ đến việc xấu, người xấu để nghiệp mình sanh khởi thì dù ở trong nhà Phật cũng bị đọa. Ở chùa là nơi giải thoát mà sao chị em lại không bằng lòng nhau, giận nhau, là sai lầm lớn.

Phật nói rằng Bồ-tát đi vào trần lao, nhưng thể hiện được tâm giải thoát. Còn chúng ta ở trong cảnh giải thoát mà phiền não. Bồ-tát vào đời cứu độ, làm cho phiền não của chúng sanh lắng dịu, trần lao hết, là ý nghĩa Bồ-tát đến đâu, sen nở đến đó. Đời là chốn bùn nhơ tội lỗi, nhưng Bồ-tát vào đó làm cho sen ngát hương. Tại sao chúng ta ở chùa tu với những người xuất thế lại làm cho phiền não mình phát sanh.

Phải dẹp tâm phiền não. Ở chỗ giải thoát, chúng ta tự gom tâm mình lại một chỗ. Tôi thường tập trung tâm, mắt chỉ mở một phần ba, nhìn trước mắt thôi, không nhìn qua nhìn lại. Nhìn xung quanh là có chuyện. Tu hành, tập trung tâm vào tượng Phật đẹp tiêu biểu cho đức tướng của Như Lai mà chúng ta ưa thích, sẽ dễ dàng thanh tịnh.

Chúng ta khuôn tâm mình lại, chỉ có ta và Phật và thu hẹp lại, ta và Phật là một, vì Phật đã đem vào tâm ta. Kinh Hoa nghiêm dạy rằng Phật, tâm và chúng sanh là một. Được như vậy thì Tịnh độ tâm xuất hiện. Tu pháp này, theo kinh Pháp hoa, ở đâu cũng được, tâm gom lại thì ở gốc cây, ở gò mả, hay ở cung điện cũng đều là đạo tràng, ngay chỗ đó có Phật ra đời, thuyết pháp và Niết-bàn. Chỗ đó là chỗ tâm ta và Phật là một; nói cách khác là nhập Pháp giới. Tâm và Phật thống nhất thành một, chúng ta nhìn ra Pháp giới, nhìn ra xã hội và thiên nhiên, thấy được một màu thanh tịnh. 

Trở lại pháp tu sám hối, trước nhất phải xưng tán Phật, kế tiếp mới thành khẩn lạy Phật. Thứ ba là sám hối tội căn; tất cả những việc sai lầm của mình, xin Phật từ bi chỉ dạy và nguyện chừa bỏ. Thứ tư đến phần phát nguyện làm theo Phật, nghĩ theo Phật, nói theo Phật. Và sau cùng là hồi hướng; bao nhiêu công đức mà ta tu được trong đời này xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Tuy nói rằng tu một pháp sám hối, nhưng thực ra đã tu cả năm pháp: Tán thán, lễ Phật, sám hối, phát nguyện và hồi hướng.

Muốn đem Phật pháp vào tâm, chúng ta phải sám hối

Muốn đem Phật pháp vào tâm, chúng ta phải sám hối

Ý nghĩa hồng danh sám hối

Tu Hồng danh sám hối, lạy Phật, nhờ Phật huệ rọi để mình thấy được người thân hay người thù và có cách hóa giải. Áp dụng pháp tu này, tôi thấy tâm hồn nhẹ nhàng hơn. Vì tâm hồn yên tĩnh, tôi cảm giác được ở trong chùa có những người vô hình hiện hữu, hoặc nhìn núi sông, mưa nắng, tâm hồn mình có khi liên tưởng đến những người chết. Đó chính là mối quan hệ giữa tâm thức ta và tâm thức người có quan hệ mà họ đã lìa đời.

Cũng vậy, thể hiện mối tương quan tương duyên với Phật, trên bước đường tu, ta thấy Phật bằng độ cảm, bằng niềm tin. Vì có cảm mến Phật, đã trồng căn lành ở Phật, nên nay ta mới cảm Phật được và nhìn tượng Phật mà nghĩ đến Phật thật. Còn người ác nghiệp thấy tượng Phật thì sợ. Có người thấy tượng Phật muốn đập phá là ác ma. Cũng như các Phật tử đến đây nghe pháp được là nhờ đã trồng căn lành ở Phật.

Có thể khẳng định pháp Hồng danh sám hối mang lại hiệu quả cao, nhưng phải thực hiện đúng pháp.

Lạy Phật, xưng danh hiệu Phật và nghĩ đến Phật là tu ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đầu tiên nghĩ đến Phật, cảm thấy quý kính Phật, mới xưng danh Phật và lạy Phật được. Vì vậy, lạy Phật sanh công đức là quy mạng lễ, tức lạy Phật với tất cả sự kính trọng. Còn lạy Phật ngã mạn là lạy nhưng không phục, hay lạy lấy lệ, lạy một cách vô cảm. Thí dụ các thầy nhỏ lạy tôi, có người kính trọng tôi mà lạy, nhưng có người không ưa cũng lạy, vì thấy người bạn lạy. Tôi bảo họ đừng lạy, hay tôi tránh một bên, không cho lạy.

Đối với Đức Phật, dùng cả ba nghiệp thanh tịnh để lạy Phật, công đức mới sanh. Ba nghiệp thanh tịnh giúp mình dễ tập trung, nhưng thực chất lạy Phật là tâm quan trọng. Vì vậy, kính trọng Phật thật, thương Phật thật, thì chỉ ngồi yên, nhưng độ cảm Phật sâu, khiến mình cảm giác như đang lạy Phật. Riêng tôi, khi nghĩ nếu Phật pháp không còn, tôi cũng không thiết sống, nên công đức sanh. Tất cả cuộc đời tôi dành trọn vẹn cho Phật pháp, nhưng Phật pháp này theo kinh Pháp hoa là con người còn tin Phật, học hiểu giáo lý, thực hành giáo lý và chứng ngộ giáo lý là Phật pháp còn. Vì thế, nếu tôi xây dựng ngôi chùa này và giảng đường mà không sử dụng là lãng phí.

Xưa kia, Đức Phật thuyết pháp trong rừng. Ngày nay, chúng ta xây chùa để phục vụ con người mà quan trọng là con người có niềm tin, có căn lành và ta nuôi lớn căn lành của họ.              

Tiếp theo phần lễ lạy Phật, đến phần sám hối:

“Tất cả chư Phật trong ba đời

Vô lượng thế giới khắp mười phương

Con dùng ba nghiệp rất thanh tịnh

Thành kính lễ lạy không hề sót”.

Đó là ba nghiệp thanh tịnh thì biến hóa không cùng. Xưng danh Phật, lạy Phật, tội của mình và tội của ông bà tổ tiên cũng tiêu theo.

Nhận thức sâu sắc lý này, tôi thường lạy Phật giùm người khác, tức mình vì tất cả Pháp giới chúng sanh đang đau khổ trên cuộc đời, cũng như người thân đang bị ở tù, mình lạy Phật thế cho họ.

Trong tháng Giêng này, mỗi ngày tôi lạy Phật thế cho hàng vạn người. Tôi có cả xấp giấy cầu an là tôi thay người mà lạy Phật với ba nghiệp thanh tịnh, chắc chắn họ được phước, giải được oan nghiệp của họ, thì người sống và người chết đều được lợi lạc.

Thật vậy, lúc mới tu, tôi cảm giác oan gia trái chủ có nhiều, nhưng tu được mười năm thì oan gia này giảm bớt, đúng như Phật dạy rằng tu hành đúng pháp thì người oán thù trở thành người thân thương. Thực tế tôi thấy người có thiện cảm với mình nhiều hơn, người ghét bớt lần. Đó là kết quả của pháp tu Hồng danh sám hối, xưng danh hiệu Phật mà lạy, chỉ mới đọc tên các Ngài, chưa biết Phật làm gì và kính trọng Phật thật, thì phước cũng sanh.

Nhưng bước thứ hai cao hơn, mình lạy được Báo thân Phật. Lạy tên Phật là lạy sanh thân Phật. Cao hơn, biết hành trạng Phật là lạy Báo thân Phật. Thí dụ cho dễ hiểu, nghe tên Trí Quảng, người có độ cảm biết tôi tu từ năm 1950 và biết tôi đã làm được gì cho đạo.

Lạy Phật có độ cảm từ sanh thân Phật lên Báo thân Phật là hành trạng Phật, tức thấy được quá trình tu hành của Phật khiến mình sanh kính trọng Ngài nhiều hơn. Đó chính là lạy Phật theo tinh thần Đại thừa.

Người tu Đại thừa theo Phật là theo Báo thân, tức làm theo Phật, vì  kính trọng Phật thôi chưa đủ. Phật nói rằng Ngài đã từng làm những việc lợi ích cho nhiều người, các ông cũng phải làm như vậy, nghĩa là ta biết được phước đức và trí tuệ của Phật gọi là Báo thân Phật.

Ta cũng có Báo thân, nhưng là nghiệp báo, nên hiện thân hôi dơ, xấu xí, bệnh hoạn, ngu dốt… Các Đức Phật khác thì mình không biết, nhưng biết Đức Phật Thích Ca đã hiện hữu trên cuộc đời này. Ngài cho biết trải qua vô lượng kiếp Ngài đã tu Bồ-tát đạo, nên kết thành Báo thân thông minh, tài giỏi, hảo tướng…, tức phước đức và trí tuệ của Phật Thích Ca đầy đủ viên mãn.

Vì vậy, trên thực tế, người thông minh hơn mình thì phải biết đời trước họ đã tu rồi. Theo Nguyên thủy, ai tu trước thì lớn, nhưng theo Đại thừa, ai có  trí tuệ hơn thì làm thầy, không căn cứ vào tuổi lớn nhỏ.

Theo Đại thừa, tôi 81 tuổi, nếu tái sanh lại, tôi là đứa bé. Đời này tôi là Hòa thượng Pháp sư, nhưng đời sau các thầy lớn tuổi hơn thì lúc đó tôi là tiểu. Nhưng nếu các thầy đắc đạo, biết tôi đã là Pháp sư tái sanh thì không dám xem thường chú tiểu này.

Đức Đạt-lai Lạt-ma tìm thầy của ông sanh lại chỗ nào, nhìn thấy đứa bé 5 tuổi nhưng nhận ra là thầy mình thì lạy. Thử hỏi ai là thầy của ai. Có câu chuyện kể rằng một vị trụ trì chết và tái sanh. Các vị Lạt-ma lớn tuổi tìm thấy cậu bé 5 tuổi. Cậu bé hỏi các ông đi đâu vậy. Thường đứa trẻ độ 5 tuổi, 6 tuổi còn nhớ được đời trước của nó. Các Lạt-ma nói chúng tôi tìm thầy của mình. Tiểu hỏi ông đó là ông nào và hỏi vị Lạt-ma già rằng sao ông xài xâu chuỗi của tôi, xâu chuỗi này có một hột nứt. Lạt-ma nghe vậy cảm thấy sợ, vì ông lấy chuỗi này xài, có một hột nứt nhưng ông không biết, còn ông nhỏ này lại biết.

Theo Đại thừa, người nào thông minh hơn, làm được nhiều việc hơn là người đó lớn. Kính trọng tuổi là việc bình thường. Thứ hai là kính trọng trí khôn. Thứ ba là kính trọng việc làm thánh thiện. Đức Phật đã nói sống 100 tuổi mà không làm được gì thì sống vô ích. Sống một ngày mà làm được việc tốt thì nên sống.

Trở lại việc lạy Phật, bắt đầu lạy sanh thân Phật, tuy có phước nhưng không nhiều. Bước hai, lạy Báo thân Phật là lạy hành trạng của Phật, tức lạy trí thông minh siêu tuyệt và đức hạnh cao tột của Phật và cảm nhận Phật từng cưu mang mình từ đời quá khứ.

Vì vậy, chúng ta lạy Phật là thấy Phật bằng niềm tin mới lạy. Có niềm tin, nghĩ đến Phật và thấy Phật, Phật mới hộ niệm. Phải nói đánh dấu mốc tu hành kể từ ngày ta có niềm tin và phải nuôi lớn niềm tin. Chúng ta có căn lành, có niềm tin mới tới chùa, nhưng nếu chẳng may gặp ông thầy không ra sao khiến ta chán nản, bỏ đạo. Chết niềm tin là điều đáng sợ nhất, gọi là nhứt-xiển-đề.

Người chưa tu còn có niềm tin, nhưng tu mà không đạt kết quả thì dễ bỏ tu. Điều này được thể hiện qua câu: “Nhứt niên Phật tại tiền. Nhị niên Phật thăng thiên. Tam niên Phật bất kiến”. Vì ta mới tu thường hết lòng, nhưng tu một năm rồi, ngày nào cũng tụng kinh đó, ăn ngủ giống như vậy, nên sanh tâm nhàm chán là mất niềm tin. Như đã nói mất niềm tin Phật là điều đáng sợ nhất. Không xuất gia thì thôi, nhưng quyết tâm xuất gia phải đi tới cùng.

Thực tế tôi thấy khi còn là cư sĩ, họ rất tinh tấn. Nhưng tu một năm bắt đầu nản, thì năm thứ hai làm biếng gọi là Phật thăng thiên và người này tu Bát quan trai, chờ Phật ngủ để họ ăn.

Có căn lành thì mình thấy Phật lúc nào cũng nhìn mình. Hòa thượng Thiện Hòa dạy tôi ở trong phòng kín một mình, nhưng phải thấy giống như đang ở đồng trống, ai cũng thấy mình, nên không được làm bậy.

Không có niềm tin sâu sắc với Phật, không tu đúng pháp thì đến năm thứ hai bắt đầu làm biếng, cho đến năm thứ ba, không còn thấy Phật.

Vì vậy, ráng tu, giữ gìn căn lành, làm căn lành mình mỗi ngày lớn thêm thì công đức sanh, thấy Phật gần hơn. Riêng tôi, mới tu thấy Phật xa, nhưng bây giờ thấy Phật gần hơn là gần trong suy nghĩ của tôi. Suy nghĩ của tôi gần suy nghĩ của Phật, vì càng đọc kinh Phật, thấy lời Phật dạy đúng với suy nghĩ của mình, nên ham tu.

Còn đọc kinh mà thấy kinh lỗi thời, rồi lên mạng coi đủ thứ chuyện tội lỗi, bậy bạ dễ tiêm nhiễm; trong khi chuyện đạo đức thì khó làm theo.

Tôi lúc nào cũng tụng kinh, không cần phải ở trước Phật mới tụng kinh. Người tụng kinh một chút xong, rồi cởi áo lễ, nói đủ thứ chuyện vô bổ, làm sao sanh công đức.

Lạy Phật xong, nhưng trong tâm còn Phật là gần Phật, nên thấy hạnh Phật, công đức Phật thì hạnh mình gần Phật. Làm sao biết được hạnh gần Phật. Thí dụ quý vị thấy tôi thì nghĩ đến Phật, nghe tôi nói thì nghĩ đến Phật, là tôi hơi giống Phật một chút rồi. Vì vậy, gần Phật là giống Phật.

Còn mình nói là đệ tử Phật, nhưng nhìn từ đầu đến chân không có gì giống Phật, lời nói cũng không giống Phật. Như vậy mình là đứa con ngỗ nghịch mà muốn Phật hộ niệm, không bao giờ được.

Giống Phật, không cầu Phật che chở, Phật cũng che chở. Thật vậy, các Phật sự tôi làm được đều nhờ Phật gia hộ.

Lạy Phật, thấy được Báo thân Phật là gần Phật và giai đoạn ba, thấy được Pháp thân Phật, tức chuyển hóa được thân tâm trở thành Hóa thân Phật.

Lạy Hồng danh sám hối, tôi lạy từ Phật Phổ Quang, Phật Phổ Minh, đến Phật Phổ Tịnh, tâm hướng thẳng về tuệ giác vĩ đại của ba vị Phật này khiến cho niềm tin bừng sáng trong đầu. Và lạy đến vị Phật cuối cùng là Phật Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà thì tôi trực nhận được Phật A Di Đà và Phật Thích Ca là một.

Ban đầu, lạy Phật thấy từng vị Phật riêng biệt, nhưng lạy đến Phật Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà thì nhận ra Phật A Di Đà không còn ở Tây phương, nghĩa là Báo thân Phật bao trùm khắp nơi, khắp Pháp giới, cho nên Ngài bao trùm cả chúng ta nữa khiến tôi cảm thấy an lành vô cùng.

Vì vậy, trong Pháp giới tạng thân của Phật có mình trong đó, nên mình ở trong thân Phật, được Phật che chở; nhưng kinh không nói như vậy mà nói rằng khi chết, vãng sanh chui vô bông sen, hay được Bồ-tát Đại Thế Chí ném bông sen cho mình và mình bước lên bông sen thì sen búp lại đưa về Tây phương Cực lạc,  ở đó tu, nghe pháp và chứng Vô sanh pháp nhẫn.

Thuở nhỏ, tôi nghe vậy cảm thấy thích và mỗi ngày niệm Phật từ 10 đến 50 xâu chuỗi để được Đức Đại Thế Chí cho bông sen, nên tôi thường niệm Phật cho đến trong giấc mơ cũng niệm Phật.

Theo tôi, lạy Hồng danh sám hối, lạy đến vị Phật Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà là mình đã hiện hữu trong Pháp thân Phật. Và Pháp thân Phật có tác động qua thân mình làm nghiệp của mình tiêu, vì pháp Phật có công năng rửa sạch nghiệp. Đó là kết quả tốt đẹp mà người lạy Hồng danh đúng nghĩa có được.

Bốn câu kệ mở đầu như đã nói ở trên là mười nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát được triển khai. Nương nguyện Phổ Hiền, hạnh Phổ Hiền giúp chúng ta thâm nhập Phật huệ.

Lạy đến Phật cuối cùng, thấy tất cả chư Phật mười phương và chúng ta thấy đầy đủ các Đức Phật rồi, thì tánh thấy của ta đều ở trước các vị Phật mười phương. Không phải là ta ở trước chư Phật, mà là tánh thấy của ta gắn kết với chư Phật. Và quan trọng là một niệm mà lạy được tất cả Phật mười phương.

Còn quý vị chỉ đọc suông: “Nhứt giả lễ kính chư Phật. Nhị giả xưng tán Như Lai. Tam giả quảng tu cúng dường. Tứ giả sám hối nghiệp chướng…” thì đọc hết mười nguyện Phổ Hiền là xong.

Nhưng một câu “Lễ kính chư Phật” nếu chỉ đọc thì chưa có gì. Đọc câu này, ta phải thấy tất cả Phật mười phương thì bấy giờ niềm tin của ta, tánh thấy của ta xuất hiện trước các Phật đó; nhờ vậy, một niệm tâm mà ta lạy đủ Phật, không sót; vì con người vật chất không đi xa được, nhưng tâm chúng ta, tánh chúng ta có khả năng đi khắp nơi vô cùng nhanh chóng, biến hóa không lường, gọi là xứng tánh khởi tu, hay tu ở tâm.

Thật vậy, tôi đi Ấn Độ bằng tâm thì tôi nghĩ đến Bồ Đề Đạo Tràng, nghĩ đến non Linh Thứu, tức thì tâm tôi tới đó liền, tánh thấy của tôi ở đó liền, nên ngồi đây mà đã đến đó.

Vì vậy, người tu có kết quả, nói rằng Tịnh độ tuy xa, nhưng không rời Ta-bà một bước là bằng tâm, bằng tánh nhận ra. Đạt được sở đắc này, sử dụng tâm mà tu, bằng tánh mà thấy; tu hơn nhau ở điểm này.

Tánh biến hóa không lường được thể hiện qua câu chuyện Tề Thiên được Đức Quan Âm cho ba sợi lông cắm sau ót. Nghĩa là Phật, Pháp, Tăng cấy vô đầu, vô ót mình thì ba nghiệp của mình trở thành thanh tịnh sẽ có tác dụng biến hóa vô cùng, không phải chỉ có có 72 thần công lực. Có vô số việc, hay có bao nhiêu việc, Tề Thiên đều giải quyết được.

Đức Phật Thích Ca biết được mọi việc và làm được tất cả việc, nên Ngài có tôn danh là Năng Nhân. Ai đáng độ thì Ngài độ. Với người chưa đáng độ, Ngài ví như trái non chưa ăn được, chưa độ vì họ chưa phát tâm.

Lạy Phật xong, chúng ta đọc kệ Phổ Hiền hạnh nguyện thì đầy đủ hơn là đọc mười hạnh Phổ Hiền. Có 60 bài kệ Phổ Hiền hạnh nguyện. Mở đầu, Bồ-tát Phổ Hiền cho biết rằng ba nghiệp thanh tịnh mới lễ Phật không sót. Không thanh tịnh thì lễ một Phật cũng không được.

“Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền

Phân thân hiện khắp trước Như Lai

Một thân lại hiện sát trần thân

Mỗi thân lạy khắp sát trần Phật…”

Nương theo lực Phổ Hiền, vì Ngài đã tu chứng được lực siêu nhiên và nhờ lực Phổ Hiền trợ giúp chúng ta, nên một thân này nhưng hiện được vô số thân là tâm mình biến hóa vô cùng. Vì vậy có bao nhiêu Phật, mình hiện đủ bấy nhiêu thân lễ lạy đủ không sót, dù thân chưa đi, vẫn ở yên một chỗ.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

Vì chúng sinh - Đức Phật đản sinh!

Kiến thức 08:29 13/05/2024

Như hoa ưu đàm ba ngàn năm mới nở một lần, có thể nói, sự đản sinh của vị Đại Bồ Tát Nhất Sinh Bổ Xứ từ cung trời Đâu-suất là một sự kiện hết sức trọng đại và hy hữu trong lịch sử nhân loại.

Đạo Phật trong đời sống dân tộc

Kiến thức 16:35 12/05/2024

Đạo Phật du nhập vào nước ta khoảng những năm đầu Tây lịch, đã trở thành một trong những hệ tư tưởng có sức sống lâu dài nhất và song hành cùng dân tộc trong mọi thời đại. Chính vì vậy, văn hóa Phật giáo ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống của dân tộc ta...

Nơi nương tựa của người Phật tử

Kiến thức 15:54 12/05/2024

Theo kinh Pháp hoa, một người chỉ cần miệng xưng Nam-mô Phật; đi ngang chùa tháp, người ấy chỉ cần giơ một cánh tay,… thì cũng có thể thành Phật đạo. Đơn giản thế, vì họ biết hướng tâm về Phật, gieo duyên lành với Phật, có thể gặp Phật, thành Phật, và họ có thể được xem như là một Phật tử.

Làm thế nào có thể không già?

Kiến thức 14:05 12/05/2024

“Nguyện nhất thiết chúng sanh, đắc bất lão bất bệnh”. Làm sao có thể được không già, đây cũng là điều mà mọi người mong cầu, đều hy vọng mãi mãi thanh xuân. Làm thế nào có thể không già? Con người dường như đều sẽ già.

Xem thêm