Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ sáu, 05/08/2022, 15:27 PM

Ý nghĩa siêu độ, bạt độ trong nghi thức Mông Sơn thí thực (phần I)

Nghi thức Trai đàn chẩn tế siêu độ hay bạt độ cho cô hồn, ngã quỷ, âm linh ra đời từ khi Phật còn tại thế.

Trong kinh ghi rõ lời đức Thế Tôn chỉ dạy cho ngài A nan nhiều tiết mục cúng thí cho các loài ngạ quỷ được ăn bằng xúc thực, ý tư thực theo thứ tự như: mua sắm các thực phẩm nấu chín, bày biện lên bàn, có hương hoa, trà quả. Rồi chắp tay nhất tâm phụng thỉnh chư vị cổ Phật đến đạo tràng cúng tế, để giúp chúng sinh cõi âm được ăn, uống cùng nghe rõ lời kinh, lời pháp khai thị của chư Phật một cách trật tự và hanh thông, sau đó yết hầu được mở rộng (yết hầu mở rộng xin nói ở phần sau) để được ăn uống dù bằng xúc thực, ý tư thực vẫn cảm thấy khoái khẩu no nê.

Nghi thức Trai đàn chẩn tế là phương thức siêu độ, bạt độ cô hồn, vong linh, âm linh mà ta thường thấy ở các chùa, tự viện và các tịnh thất hay làm vào những ngày lễ trọng. Đặc biệt là Trai đàn chẩn tế thường được tổ chức lớn nhằm vào việc siêu độ các vong linh mang tính cách (nhân văn xã hội) cao thượng đó là cầu siêu cho các hương hồn liệt sĩ, các vong linh tử nạn về an toàn giao thông, các vong linh thai nhi sản nạn, hoặc những nơi xảy ra tử nạn đông người...

Với lòng bi mẫn của đức Phật dạy, trên thực tế chúng ta thấy không phải lúc nào cũng lập được Đàn tràng lớn, bởi các yếu tố (tổ chức kinh tế, xã hội-chính trị). Vậy, theo kinh sách và các chân sư chỉ dạy, nếu chúng ta là những Phật tử thuần thành, có tâm chí thành thương xót các cô hồn, ngã quỷ, âm linh thì đều có thể thực hiện được nghi thức thí thực Tiểu Mông sơn ở ngay khu vực mình ở và tại tư gia vào những ngày sóc vọng (nếu thấy cần thiết).

Cúng thí thực theo các Tổ thầy dạy, phải xuất phát từ tâm thành, vật thí thực không tốn kém cầu kỳ mà rất đơn giản.

Cúng thí thực theo các Tổ thầy dạy, phải xuất phát từ tâm thành, vật thí thực không tốn kém cầu kỳ mà rất đơn giản.

Cúng thí thực theo các Tổ thầy dạy, xét về mặt căn bản là phải xuất phát từ tâm thành, vật thí thực không tốn kém cầu kỳ như người ta tưởng mà rất đơn giản. Điều cốt yếu của nghi thức là chúng ta phải thực hiện trai giới như pháp (tức thực hiện chánh pháp) để trì chú thì mới đem lại lợi ích bất khả tư nghị cho các loài cô hồn, ngã quỷ cũng như các đảng.

Một thực tế hiện nay, không ít thầy bà theo tín ngưỡng dân gian thần quyền nhân danh (này nọ) tổ chức cúng thí không chỉ gây tốn kém về vật chất mà kết quả cầu siêu bạt độ cho các vong linh, cô hồn, các đảng không đem lại kết quả như mong muốn (nếu không muốn nói là gây thêm phiền não chướng) bởi họ không hiểu được ý nghĩa sâu mầu của chánh pháp đạo Phật. 

Bài viết này chúng tôi có đôi lời bàn luận tham cứu góp phần vào việc thực hiện cúng thí thực, để chúng ta cùng chia sẻ suy ngẫm tìm hiểu về nội dung này, trên cơ sở với lòng bi mẫn thực hiện việc cứu độ chúng sinh theo tinh thần Chánh pháp mà đức Thế Tôn đã dạy.

Duyên khởi - xuất xứ cúng Mông Sơn thí thực

Đạo Phật là đạo cứu chúng sinh ra khỏi sáu cõi sinh tử luân hồi khổ đau để đến các cõi Phật giới (hay còn gọi là cõi vô sinh tử). Do đó chư Phật trong mười phương thế giới đều thị hiện vào tam giới, lục đạo để cứu khổ chúng sinh theo sở nguyện phương tiện của mình. Đó là giáo pháp, tâm đại từ bi và trí tuệ.

Đức Phật thích Ca Mâu Ni thị hiện Ta bà, nói pháp và hướng dẫn con người tu tập giáo pháp để giải thoát sinh tử luân hồi. Đức Thế Tôn còn thuyết minh về các kinh Dược sư, kinh Địa Tạng, kinh A Di Đà để cứu khổ chúng sinh về bệnh tật qua (kinh Dược Sư); cứu khổ chúng sinh trong các cõi địa ngục, ngã quỷ và cõi người qua (kinh Địa Tạng) nhằm thức tỉnh con người luôn tự cảnh giác mà xa lìa các đường ác quỷ; với kinh A Di Đà, đức Thế Tôn cũng chỉ dạy cho con người ai muốn vãng sinh về nước Cực lạc thì tu pháp môn Tịnh độ. Và với đức Bồ tát Quán Thế Âm thì Ngài nói về ý nghĩa sâu mầu về chú Đại Bi để cứu khổ cứu nạn chúng sinh.

Cùng với đức Thích Ca Mâu Ni lúc bấy giờ, bên cạnh Ngài còn có nhiều vị cổ Phật thị hiện trong Tăng đoàn để trợ lực với Ngài về một số giáo vụ quan trọng khác nhau như ngài A Nan (thị giả Phật có khả năng nghe và thuộc lòng tất cả các kinh Phật đã nói); Xá Lợi Phất (bên cạnh Phật thuyết pháp); Ca Diếp, Mục Kiền Liên (được Phật chỉ cho cách cứu mẹ thoát kiếp ngạ quỷ để rối có kinh Vu Lan) và các ngài Phú Lâu Na, Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Thế Âm...Trong tất cả các vị cổ Phật có mặt bên cạnh đức Phật Thích Ca thì đức Quan Thế Âm được thấy ở nhiều hạnh nguyện Bồ tát cứu khổ, cứu nạn thật đa dạng với nhiều phương tiện thị hiện thân tướng tương ưng trong các cõi để cứu độ chúng sinh.

Điều muốn nói ở đây là Phật Quán Thế Âm thị hiện quỷ Vương Tiêu Diện và với xuất xứ nghi thức "Mông Sơn Thí Thực Cô hồn". Theo tác giả Đức Hạnh, thì nghi thức này có ba xuất xứ, nhưng theo người viết tóm lược lại thì chỉ có hai xuất xứ căn bản được ghi nhận qua kinh điển đó là:

Một: Lúc Phật còn tại thế: một hôm, vào buổi chiều, Tôn giả A Nan đang tọa thiền tại bãi cỏ ngoài tịnh xá Kỳ Viên. Bỗng nghe có tiếng động, A Nan ngước mặt nhìn, thấy một con quỷ có thân tướng mặt đỏ, lưỡi lè dài tới rốn, miệng tóe lửa, râu ria xồm xoàm, đang cầm chĩa ba, quỳ xuống quỷ nói:

"Này A Nan, ta là Quỷ Vương, thống trị các loài ngạ quỷ, nhưng ta đang đói lắm! Ta sẽ ăn thịt ngươi A Nan". Nói xong con quỷ trườn tới. An Nan sợ quá, đứng lên nói: "Khoan đã, đừng ăn thịt ta, ta sẽ tính chuyện ấy sau cho quỷ". Nói xong, A Nan chào quỷ vương đi vào tịnh xá. Tại đây, A Nan gặp Phật và trình bầy đầu đuôi câu chuyện về con quỷ mặt đỏ, lưỡi dài, miệng đầy lửa đòi ăn thịt mình cho đức Phật nghe.

Đức Phật nói: "Không sao đâu, A Nan đừng sợ! Quỷ không thể ăn thịt người được. Để Như Lai chỉ cho A Nan những cách cúng dường cho các loài quỷ được ăn".

Những cách cúng dường ấy cho các loài ngạ quỷ, âm linh, cô hồn...được ăn như thế nào, đức Thế Tôn chỉ cho ngài A Nan đã được ghi trong kinh có tên "Kinh Diệm Khẩu".

Đạo Phật là đạo cứu chúng sinh ra khỏi sáu cõi sinh tử luân hồi khổ đau để đến các cõi Phật giới (hay còn gọi là cõi vô sinh tử).

Đạo Phật là đạo cứu chúng sinh ra khỏi sáu cõi sinh tử luân hồi khổ đau để đến các cõi Phật giới (hay còn gọi là cõi vô sinh tử).

Hai: Xuất phát từ lòng thương xót chúng sinh trong các cõi âm vô bờ bến, với đại bi tâm và trí tuệ thâm sâu của bậc đạo sư chân tu, ngài thiền sư Bất Động đời nhà Đường tại núi Mông đã được vô số ngã quỷ, cô hồn, âm linh tìm đến ngài để xin bố thí cho ăn qua nhiều hiện tượng như: cứ vào những chiều chạng vạng, ngài Bất Động thiền sư nhìn thấy những ngọn lửa lập lòe, ngắn dài, run rẩy chơi vơi dưới các thung lũng núi Mông, cùng với những thanh âm tru tréo hú vang thật rùng rợn! Rồi đến khi ngài vào ngồi thiền thì nghe bên ngoài chung quanh chùa có những tiếng xì xào, gõ cửa than khóc...

Trước những hình ảnh ma quái của các loài cô hồn, ngạ quỷ, âm linh hằng đêm hiện ra như vậy, ngài Bất Động thiền sư hiểu ý các loài âm linh ấy bị đói, lạnh muốn ngài cứu giúp cho được no ấm. Từ đó ngài Bất Động quyết tâm đi tìm phương cách bố thí thực phẩm cho chúng sinh cõi âm được ăn bằng giáo pháp Phật (cam lồ pháp thực). Do vậy, ngài Bất Động đã bỏ công tìm kiếm trong Đại Tạng Kinh đời Đường qua thời gian nhiều tháng năm và cuối cùng ngài tìm gặp được cuốn kinh Diệm Khẩu (tức miệng lửa). Trong kinh ghi rõ lời đức Thế Tôn chỉ dạy cho A Nan nhiều tiết mục cúng thí cho các loài ngạ quỷ được ăn bằng xúc thực, ý tư thực theo thứ tự mà được no đủ.

Nghi thức thí thực công phu chiều cũng được thiền sư Bất Động soạn trong kinh Diệm Khẩu. Trong quá trình soạn, ngài cơ bản giữ nguyên toàn bộ lời Phật dạy, để làm nến tảng cho việc biên soạn thêm một số nghi thức tại chùa ở núi Mông, do đó mà có tên "Nghi thức Mông Sơn thí thực cô hồn". Tác phẩm soạn đấu tiên đó là Nghi thức công phu chiều, dành riêng cầu siêu độ cho cô hồn, ngạ quỷ hằng ngày trong thiền môn (chùa). Trong đó gồm các kinh Di Đà cầu siêu; kinh Hồng Danh Bảo Sám (để sám hối) cho chúng sinh cõi âm nói chung. Tiếp đến Tiểu Mông Sơn (toàn bộ kinh Diệm Khẩu). Tuy nhiên, ngài Bất Động thiền sư có thêm lời ngưỡng vọng hướng về kính lễ: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh; Thường Trụ Thập Phương Phật, Pháp, Tăng và Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni; Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát; Minh Dương cứu khổ Địa Tạng Vương Bồ tát; Khải giáo A Nan Đà Tôn giả. Lời ngưỡng vọng kính lễ này, nếu không nói rằng đó là lời báo ân, thì cũng là lời giới thiệu cho toàn thể bốn chúng đệ tử Phật hậu lai biết rõ nguyên nhân ra đời của nghi thức cúng thí cô hồn, ngạ quỷ là do hai vị cổ Phật Quán Thế Âm, A Nan đà và đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni mà có.

Cũng căn cứ từ kinh điển của chư Phật, ngài Bất Động thiền sư sau khi thực hiện nghi thức cúng thí cho các cô hồn, ngã quỷ, Thiền sư cũng làm lễ quy y Phật, Pháp, Tăng cho ba giới cõi âm và có lời khai thị cho hữu tình ở giới này. Và sau cùng của nghi thức là những bài kinh Bát Nhã, Vãng Sinh...Như vậy, ta có thể hiểu sau cúng thí thực về phương diện (vật chất) là thí ngữ (tức khai thị Pháp Phật) cho cô hồn, ngã quỷ và các đảng để được siêu độ, bạt độ cảnh giới lành.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần

Nghiên cứu 09:40 15/11/2024

Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường

Nghiên cứu 09:45 03/11/2024

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...

Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo

Nghiên cứu 09:45 19/10/2024

Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.

Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội

Nghiên cứu 09:30 06/10/2024

Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.

Xem thêm