Ba học: Giới - Định - Tuệ (Hết)
Sanskrit gọi là prajñā, Pāli gọi là paññā, Trung Hoa dịch âm là Bát-nhã, có nghĩa là suy lý, là chỉ khả năng suy lý phán đoán mọi tác dụng tinh thần đối với sự vật và lý tính, là tên của tâm sở, là một trong bảy mươi lăm pháp theo Câu-xá luận, hay là một trong một trăm pháp theo Duy thức, là phần học cuối của ba học. Vì Tuệ có khả năng thứ nhất là hiển lộ bổn tánh xưa nay của chúng sanh, thứ hai là có khả năng lựa chọn đoạn trừ các loại phiền não vô minh và cuối cùng, có khả năng thấy rõ thật tướng của chư Phật, cho nên Tuệ thông cho cả ba tánh thiện, bất thiện và vô ký. Nếu là ác tuệ thì
Câu xá luận 26 cũng nói tuệ được chia ra hai loại hữu lậu tuệ và vô lậu tuệ. Loại tuệ thứ nhất cùng với pháp phiền não tương quan mật thiết với nhau không thể nào thoát ly được, chúng hỗ tương quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau và tùy thuộc vào nhau, mang tính chất của trí hơn là tuệ nên chúng ta thường nghe đức Phật bảo những người có đôi chút biện tài trong lý luận câu hữu với vô minh, tuệ vô ngại tại thế gian gọi là thế trí biện thông. Loại tuệ thứ hai được gọi là Thánh tuệ là do nhờ nghe pháp mà có được nên gọi là văn tuệ, hoặc do nhờ tư duy khảo xét mà có được thì gọi là tư tuệ, hay do tu tập theo pháp Phật mà có được thì gọi là tu tuệ; ba loại này gọi chung là ba tuệ văn-tư-tu.
Ba loại tuệ này nếu đem cộng thêm với tuệ di truyền từ kiếp trước sinh ra có được gọi chung tứ tuệ. Căn cứ vào Bồ-tát Anh Lạc Bồn nghiệp kinh quyển thượng, trong giai đoạn Bồ-tát hành, trí tuệ có thể phân ra làm sáu loại tức là ba tuệ văn-tư-tu cùng với vô tướng tuệ (đã chứng ngộ Không-vô tự tánh), chiếu tịch tuệ (dùng tuệ của trung đạo quán chiếu thấy lý trung đạo) và, tịch chiếu tuệ (là tịch và chiếu không phải hai, định tuệ bình đẳng). Tùy theo thứ lớp mà cùng với sáu vị Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác mà phối hợp nhau trong thực hành. Ngoài ra, trong mười trí thì trí ban đầu, tức là thế tục trí, thuộc về tuệ hữu lậu, còn chín trí kia như Pháp trí, Loại trí, Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, Tha tâm trí, Tận trí và Vô sanh trí là thuộc về tuệ vô lậu.
Như vậy tùy theo thuộc tính của từng cấp bậc mà chúng ta hình dung được dụng ngữ của trí tuệ như: Skrt: prajñā, Pāli: paññā, tuệ, trí tuệ, Bát-nhã; Skrt: jñāna, Pāli: ñāṇa, trí, trí tuệ, Xà-na; Skrt: vidyā, Pāli: vijjā, minh; Skrt: buddhi, giác; Skrt: medha, tuệ; Skrt: bhūri, quảng, quảng tuệ; Skrt: darśana, Pāli: dassana, Kiến, nai-lại-xá-na; Skrt: dṛṣṭi, pāli: diṭṭhi, kiến; Skrt: vipaśyanā, Pāli: vipassanā, quán, tỳ-bát-xá-na; Skrt: anupaśyanā, Pāli: anupassanā tùy quán; Skrt: parijñā, Pāli: pariññā, biến tri; Skrt: abhijñā, Pāli: abhiññā, chứng trí, thần thông; Skrt: ajñā, Pāli: aññā, liễu tri, dĩ tri, a-nhã; Skrt: samprajāna, Pāli: sampajāna, chánh tri; Skrt: mīmāṃsā, Pāli: vīmaṃsā, quán, quán sát; Skrt: parīkṣā, Pāli: parikkhā, quan, quan sát; Skrt: pratyavekṣaṇa, Pāli: paccavekkhaṇa, quan sát; Skrt: dharma-vicaya, Pāli: dhamma-vicaya, trạch pháp; Skrt: pratisaṃvid, Pāli: paṭisambhidā, vô ngại giải, vô ngại biện.
Ngoài những dụng ngữ dành cho cấp bậc tu chứng trên ra, trí tuệ còn đem ra để làm thí dụ như: Skrt: cakṣu, Pāli: cakkhu, nhãn; Skrt: āloka, quang minh. Và, trí tuệ còn được cụ thể hóa sự thể nghiệm qua Bồ-đề (Bodhi), giác, đạo, tam-bồ-đề (sambodhi), chánh giác, đẳng giác. Đó tất cả những thể hiện qua ngôn ngữ biểu trưng cho thuộc tính từng chủng loại riêng biệt, nhưng chúng cũng biểu trưng cho trí tuệ tùy theo từng thuộc tính của chúng. Tuy nhiên dụng ngữ mà chúng ta thường thấy dùng rất nhiều trong kinh-luật-luận luôn là prajñā (pñāna) và jñāna (ñāṇa), hai từ này dịch nghĩa là trí tuệ, đó là cách dịch xưa. Theo cách tân dịch của ngài Huyền Tráng thì prajñā dịch là tuệ, jñāna dịch là trí. Tuệ trong ba học, trong sáu ba-la-mật hay trong bát-nhã ba-la-mật đều là tuệ cả.
Tuệ (prajñā, paññā) là trí tuệ mang ý nghĩa rộng lớn. Y cứ vào A-tỳ-đạt-ma thì tác dụng của tuệ bao gồm có thiện, ác và vô ký trong tất cả mọi nhận thức, thậm chí nó bao gồm cả liệt tuệ của phàm phu hữu lậu cho đến tuệ tối cao của vô lậu. Bát-nhã, về mặt nào đó, trí tuệ của Bát-nhã được nhận thức là trí tuệ tối cao, mà thật ra thì Bát-nhã chỉ là một loại trí tuệ phổ thông, nhưng nếu cộng thêm từ Ba-la-mật (pāramitā) vào thì mới thật sự trở thành tối cao, hoàn toàn mang ý nghĩa trí tuệ của Bát-nhã Ba-la-mật. Trí (jñāna, ñāṇa) chủ yếu được dùng lại từ hình dung trí tuệ khai ngộ. Những loại tận trí, vô sanh trí, chánh trí đều là trí tuệ của các bậc A-la-hán, còn trí ba-la-mật là trí tuệ tối cao của thập địa Bồ-tát như Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí được gọi là Tứ trí, nếu cộng thêm với Pháp giới thể tánh trí thì gọi là Ngũ trí, tất cả đều thuộc về trí tuệ giác ngộ của Bồ-tát. Ngoài ra còn có ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí, đây là trí tuệ nói chung chỉ cho trí tuệ giác ngộ từ các vị Thinh văn, Duyên giác, Bồ-tát cho đến quả vị Phật.
Từ đó, chúng ta đánh giá được những ưu khuyết của những lời nói và thực hành nếu không đủ những tiêu chuẩn chân, ngụy của Phật lý mang lại qua sự thân cận này. Hành giả khi tu tập nên y vào những giáo pháp nào vừa khế cơ vừa khế lý, phù hợp với những lời dạy của Phật thì chúng ta y vào pháp đó mà tu tập, còn đối với cá nhân của những vị truyền đạt nếu phù hợp khế cơ, khế lý với pháp Phật thì dù người truyền dạy là phàm phu tục tử, hay ngoại đạo mà họ nói ra lý của những lời dạy đó khế hợp với chánh pháp thì chúng ta vẫn có thể tín thọ phụng hành. Ngược lại, những ai cho dù mang trong người những hình thức đầu tròn, áo vuông, nhân danh là đệ tử của bậc Thánh, hay tướng tốt đầy đủ như thân Như Lai; nhưng trong những lời thuyết giáo không khế hợp với chánh pháp của Phật dạy thì chúng ta vẫn không theo, không y chỉ vào họ, huống chi là những phàm phu tục tử!
Cho nên chúng ta phải y pháp bất y nhơn (dharmapratisaraṇna bhavitavyaṃ na pudgala-pratisraṇena). Theo kinh 05, phẩm Thinh Văn, Tăng Nhất A-hàm, Phật dạy các Tỳ-kheo về bốn đại nghĩa của Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, Giới, “Tỳ-kheo nên biết, nếu có Tỳ-kheo nào tụng kinh trì pháp, phụng hành cấm giới. Vị ấy nói rằng: ‘Tôi có thể tụng kinh trì pháp, vâng giữ cấm giới, học rộng nghe nhiều’ thì hãy cùng Tỳ-kheo kia thảo luận, chiếu theo pháp mà cùng thảo bàn về Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, Giới. Nếu những điều được hiển hiện ấy tương ưng với Khế kinh, tương ưng với Luật và Pháp, khi ấy bèn thọ trì. Nếu không tương ưng với Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, thì nên trả lời: ‘Này bạn, nên biết đây chẳng phải là những lời dạy của Như Lai. Những lời bạn nói chẳng phải gốc của chánh kinh. Vì tôi thấy nó không tương ưng với Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm’. Vì không tương ưng nên phải hỏi về sự hành trì giới. Nếu không tương ưng với giới hạnh, nên nói với người kia: ‘Đây chẳng phải là tạng của Như Lai!’ là phủ nhận lại những lời đức Đạo sư đã dạy”.
Cũng theo kinh 05, phẩm Thinh Văn, Tăng Nhất A-hàm, Phật dạy các Tỳ-kheo về bốn đại nghĩa của Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, Giới, “Tỳ-kheo nên biết, nếu có Tỳ-kheo nào tụng kinh trì pháp, phụng hành cấm giới. Vị ấy nói rằng: ‘Tôi có thể tụng Kinh, trì pháp, phụng hành giới cấm, học rộng, nghe nhiều’. Giả sử Tỳ-kheo ấy có nói những gì, cũng không nên thừa nhận khi chưa đủ để dốc lòng tin tưởng. Nên cùng với Tỳ-kheo kia luận nghĩa. Nếu tương ưng với nghĩa thì nên bảo người kia rằng: ‘Đây là nghĩa được nói, nhưng không phải gốc chánh kinh’. Nên chọn lấy nghĩa đó chứ đừng nhận gốc chánh kinh. Sở dĩ như vậy là vì nghĩa là căn nguyên để hiểu kinh. Đây gọi là gốc của đại nghĩa được diễn thứ hai”.
Cũng theo kinh 05, phẩm Thinh Văn, Tăng Nhất A-hàm, Phật dạy các Tỳ-kheo về bốn đại nghĩa của Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, Giới, “Nếu có Tỳ-kheo nào nói rằng: ‘Tôi tụng Kinh, trì pháp, phụng hành giới cấm, học rộng, nghe nhiều’. Nên nói với Tỳ-kheo kia về Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm. Nhưng Tỳ-kheo kia chỉ hiểu vị, chứ không hiểu nghĩa, nên bảo Tỳ-kheo kia rằng: ‘Chúng tôi không rõ những lời này có phải là những lời được thuyết bởi Như Lai hay không?’. Giả sử khi thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm chỉ hiểu văn từ, chứ không hiểu nghĩa. Tuy nghe những gì Tỳ-kheo kia nói, nhưng cũng chưa đủ để khen tốt, cũng chưa đủ để nói là dở. Lại phải đem giới hạnh để hỏi. Nếu cùng tương ưng, thì nên chấp nhận. Sở dĩ như vậy là vì giới hạnh cùng tương ưng với vị, nhưng nghĩa thì không thể rõ”. Đây gọi là nghĩa diễn giải thứ ba.
TIN, BÀI LIÊN QUAN:
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Nghiên cứu 14:00 30/11/2024Có thể thấy, Phật giáo - Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội.
Ứng dụng triết lý Phật giáo Trúc Lâm trong xây dựng, phát triển đất nước
Nghiên cứu 08:45 25/11/2024Phật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần
Nghiên cứu 09:40 15/11/2024Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.
Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Nghiên cứu 09:45 03/11/2024Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...
Xem thêm