Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ ba, 09/06/2020, 15:04 PM

Đại hạnh của các vị Đại thừa Bồ tát (II)

Từ mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… Bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi đứng nằm ngồi, cũng đều là tu. Tất cả mọi sự mọi việc từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ một vi trần đến sơn hà đại địa, đều là pháp tu của Bồ tát.

 Làm sao để trở thành Bồ tát?

Tinh tấn Ba la mật là hạnh tu của Bồ tát

Tinh tấn là cố gắng không dừng nghỉ để mau mau đạt được quả vị tối thượng trong việc tu hành. Tinh ở đây có nghĩa là tinh thuần; Tấn là đi tới. Tinh tấn là cố gắng không ngừng, luôn luôn nỗ lực để tiến tới cảnh giới tinh thuần, tức bản thể thanh tịnh. Muốn đạt được quả vị mong muốn, kẻ tu hành phải có tâm lý và thái độ của một kẻ bộ hành trên đường thiên lý vạn dặm : đi ngày, đi đêm, luôn luôn không biết mệt mỏi, tranh thủ thời gian, tranh thủ không gian. Người bộ hành ấy, bên trong thì tâm tâm niệm niệm phải đi cho đến đích, dù gặp gian nguy khổ ải cũng quyết không dừng; bên ngoài thì phải nỗ lực dẹp phá những trở ngại trên đường, khắc phục được mọi khó khăn.

Nói một cách khác, người tu Đại thừa Bồ tát, phải luôn luôn tinh tấn tu hành, để thắng giặc nội tâm và ngoại cảnh.

Giặc nội tâm là những gì? Đó là lục tặc, tam độc, thất tình, lục dục v.v… Bồ tát tích cực lo xoay vọng thức trở lại bản tâm thanh tịnh, không cho rong ruổi theo sáu trần. Bồ tát tinh tấn giữ tâm thanh tịnh, không cho khởi vọng niệm; vọng niệm không khởi thì ba độc không sinh, ba độc không sinh thì ba nghiệp không tạo, ba nghiệp không tạo thì không thọ sinh tử luân hồi. Nhưng giặc nội tâm không phải dễ thắng. Người xưa nói : “Thắng người thì dễ, mà thắng mình rất khó”. Những kẻ thiện chiến, ở chiến trường, có thể trăm trận trăm thắng; nhưng khi chiến đấu với giặc lòng, chưa chắc đã thắng được dễ dàng. Bởi thế, kẻ tu hành phải luôn luôn cảnh giác đề phòng sự khởi loạn của nội tâm, và phải cương quyết mở một mặt trận để tiêu trừ nội loạn cho đến tận gốc.

Từ mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… Bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi đứng nằm ngồi, cũng đều là tu. Tất cả mọi sự mọi việc từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ một vi trần đến sơn hà đại địa, đều là pháp tu của Bồ tát.

Từ mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… Bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi đứng nằm ngồi, cũng đều là tu. Tất cả mọi sự mọi việc từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ một vi trần đến sơn hà đại địa, đều là pháp tu của Bồ tát.

Thâm ý qua hình tượng chư Phật, Bồ tát

Giặc bên ngoài là những gì? Đó là những cạm bẫy lợi danh, món ngon vị lạ; đó là những giường êm, nệm ấm; đó là những sắc đẹp, lời hay v.v…Người tu theo hạnh tinh tấn phải luôn luôn đề phòng, xa tránh mọi thứ giặc nguy hiểm ấy, và quyết tâm đi thẳng đến mục đích đã vạch sẵn.

Tứ nhiếp pháp là pháp tu của Bồ tát

Người tu Đại thừa Bồ tát, nhắm mục đích lợi tha hơn tự lợi, nên tìm mọi cách để làm lợi lạc cho chúng sinh. Một trong những pháp môn để hóa độ chúng sinh một cách có hiệu quả nhất là “Tứ nhiếp pháp”. Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp để cảm hóa chúng sinh. Bốn phương pháp ấy là:

a) Bố thí, là dùng sự Bố thí để cảm hóa chúng sinh. Phương pháp nầy, đã có nói ở đoạn trên rồi, tưởng không cần phải nhắc lại ở đây nữa.

b) Ái ngữ, là dùng lời nói nhỏ nhẹ, thương yêu để cảm hóa chúng sinh. Có nhiều người trong lòng không xấu, nhưng vì lời nói thiếu nhã nhặn, thiếu dịu dàng mà mất cảm tình, có nhiều khi gây thù oán với người chung quanh. Bởi thế, muốn chúng sinh nghe theo mình, hoan hỷ làm các điều thiện, Bồ tát phải dùng lời nói nhẹ nhàng, chứa đầy yêu thương.

c) Lợi hành, là làm những việc lợi lạc cho chúng sinh để cảm hóa họ. Người tu theo hạnh Bồ tát, hễ thấy chúng sinh thiếu thốn cái gì thì mình cho cái ấy, không so đo, tính toán. Ra đường, hễ thấy ai cần dùng đến mình, thì dù khó khăn bao nhiêu, cũng không từ nan. Hành giả luôn luôn tìm cách giúp đỡ mọi người, để vớt cho họ gánh đau thương đang đè nặng trên hai vai họ. Ngày nay, những công việc từ thiện xã hội chính là những công việc rất thích hợp đối với người tu hạnh Bồ tát.

d) Đồng sự, là làm chung công việc với người, để cảm hóa họ. Muốn làm lợi ích cho chúng sinh, phải hiểu rõ hoàn cảnh, tâm lý tư tưởng của họ. Muốn thế, phải gần gũi thân cận với họ, cùng chung gánh vác công việc với họ, làm cho họ thấy mình với họ không xa cách nhau, cùng chung sống trong một hoàn cảnh như nhau. Có thế, họ mới cảm mến mình và nghe theo những lời mình khuyên bảo.

Người tu Đại thừa Bồ tát, nhắm mục đích lợi tha hơn tự lợi, nên tìm mọi cách để làm lợi lạc cho chúng sinh. Một trong những pháp môn để hóa độ chúng sinh một cách có hiệu quả nhất là “Tứ nhiếp pháp”.

Người tu Đại thừa Bồ tát, nhắm mục đích lợi tha hơn tự lợi, nên tìm mọi cách để làm lợi lạc cho chúng sinh. Một trong những pháp môn để hóa độ chúng sinh một cách có hiệu quả nhất là “Tứ nhiếp pháp”.

Hạnh nguyện Từ Bi Hỷ Xả của Đức Di Lặc

Ngũ minh là pháp tu của Bồ tát

Tứ nhiếp pháp, vừa nói ở trên là một pháp môn mà mọi người, với một thành tâm thiện chí muốn giúp ích cho đời, đều có thể thực hành được. Nhưng muốn giúp ích một cách có nhiều hiệu quả hơn, hành giả phải thông thạo các ngành chuyên môn mà Phật đã dạy trong Ngũ minh. Đó là:

a) Nội minh, là thông hiểu giáo lý nội điển để truyền để truyền bá sâu rộng Phật pháp.

b) Nhơn minh, là thông hiểu phương pháp luận lý, để biện luận chống ngoại đạo tà giáo, vạch rõ cho mọi người thấy cái giá trị chơn thật của Phật pháp và cái sai quấy, thiếu sót của các học thuyết, giáo điều khác.

c) Thanh minh, là thông thạo văn chương ngôn ngữ, biết nhiều thứ tiếng để truyền bá Phật pháp một cách có hiệu quả, từ trong nước đến ngoài nước, hầu hóa độ được nhiều người.

d) Phương minh, là thông thạo về y khoa để chữa bệnh cho người. Sự thông thạo này rất ích lợi cho việc hóa độ, vì những bệnh nhân, một khi được chữa khỏi, thì dễ dàng nghe theo, làm theo những lời chỉ dạy của người chữa. Vả lại, trong việc làm này, người đời nhận thấy rõ ràng thiện chí, lòng vị tha của mình đối với họ. Do đó, họ sẽ cảm phục và nghe theo mình.

 đ) Công xảo minh, là thông thạo về nghề nghiệp. Người biết được nhiều nghề, thì gặp hoàn cảnh khó khăn nào cũng có thể giúp đở người đời được. Nếu có thiện chí giúp đời mà tay chân vụng về, thiếu chuyên môn, không biết việc, thì cũng chẳng giúp ích gì được cho ai. Bởi vậy, những kẻ muốn ra giúp đời một cách đắc lực, trước hãy tự luyện tập cho mình có nhiều khả năng chuyên môn hơn ai hết. Các vị tu hạnh Bồ tát, để thực hiện được Đại nguyện, cần phải trau dồi tay chân cho thật điêu luyện, nghề nghiệp cho thật tinh xảo để dù ở trong trường hợp nào, cũng có thể giúp ích cho đời.

Khi chế ra pháp môn ngũ minh này, Đức Phật quả đã chứng tỏ rất sành tâm lý quần chúng. Ngày nay, nếu vị nào có phát tâm tu hạnh Bồ tát, mà áp dụng được pháp môn “Ngũ minh” này, chắc chắn sẽ được quần chúng ngưỡng mộ, tin theo, và Đạo Phật sẽ phát triển vô cùng mạnh mẽ.

Như chúng ta đã biết, pháp môn của Phật nhiều không xiết kể; kẻ lựa pháp môn này, người lựa pháp môn khác, nhưng chung cục, nếu tu một cách rốt ráo, thì quả vị cuối cùng vẫn giống nhau.

Như chúng ta đã biết, pháp môn của Phật nhiều không xiết kể; kẻ lựa pháp môn này, người lựa pháp môn khác, nhưng chung cục, nếu tu một cách rốt ráo, thì quả vị cuối cùng vẫn giống nhau.

Hạnh nguyện của Bồ tát Đại Thế Chí

Tu sáu trần, sáu căn, sáu thức, và bảy đại

Như chúng ta đã biết, pháp môn của Phật nhiều không xiết kể; kẻ lựa pháp môn này, người lựa pháp môn khác, nhưng chung cục, nếu tu một cách rốt ráo, thì quả vị cuối cùng vẫn giống nhau. Đó là quả Bồ tát hay quả Phật. Cũng như muôn ngàn lạch nước, cái nhỏ, cái lớn, cái cao, cái thấp, cái ở phương đông, cái ở phương tây, nhưng một khi đã được khai thông cho đến tận cùng thì cũng đều chảy ra biển cả. Vì lẽ đó, cho nên các vị Bồ tát, có vị tu theo những pháp môn đã nói ở đoạn trên; còn có vị lại chỉ tu riêng một Trần, một Căn, một Thức, hay một Đại mà cũng chứng quả. Những bằng chứng mà kinh điển ghi chép về các vị Bồ tát; chứng quả, do tu một pháp môn như trên, không sao kể xiết.

Noi gương các ngài nói trên, về sau, có nhiều vị cũng tu riêng một căn hay một thức. Như có vị tu hai con mắt : thấy sắc không mê sắc; tu hai lỗ tai : nghe tiếng không nhiễm tiếng; tu lỗ mũi; ngửi mùi không vướng mùi; tu cái lưỡi; niếm vi không nhiễm vị; tu cái thân : xúc chạm làn da mà không cảm xúc; tu cái ý thức : tiếp nhận pháp trần mà không nhiễm pháp trần. Bởi thế, chư tổ thường dạy những câu như : “Kiến sắc phi can sắc, văn thanh bất thị thanh” (thấy sắc đẹp không hệ lụy vì sắc; nghe tiếng hay không dính dấp gì đến tiếng) hay câu : “Ngộ thanh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa; kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết” (nghe tiếng, thấy sắc như hoa trồng trên đá; thấy lợi thấy danh như bụi rơi trong mắt).

Tóm lại, từ mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… Bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi đứng nằm ngồi, cũng đều là tu. Tất cả mọi sự mọi việc từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ một vi trần đến sơn hà đại địa, đều là pháp tu của Bồ tát. Ý nghĩa trên đây, được diễn ra trong câu kinh sau đây:

“Nhất thiết chư pháp vô phi Phật pháp”

(Tất cả các pháp đều là Phật pháp)

Cũng như muôn ngàn lạch nước, cái nhỏ, cái lớn, cái cao, cái thấp, cái ở phương đông, cái ở phương tây, nhưng một khi đã được khai thông cho đến tận cùng thì cũng đều chảy ra biển cả.

Cũng như muôn ngàn lạch nước, cái nhỏ, cái lớn, cái cao, cái thấp, cái ở phương đông, cái ở phương tây, nhưng một khi đã được khai thông cho đến tận cùng thì cũng đều chảy ra biển cả.

Hạnh nguyện Bồ Tát Quan Thế âm - Giải pháp vượt qua những khủng hoảng thời đại

Xông pha vào nghịch cảnh, thử xem tâm mình còn phiền não nhiễm ô không, để trừ

Khi mới tu, hành giả phải tìm thuận cảnh và tránh xa nghịch cảnh, để sự tu hành được dễ dàng thuận lợi. Nhưng nếu cứ ở mãi trong thuận cảnh, thì sự tu hành khó tiến bộ, vì thiếu thử thách; cũng như một thủy thủ, khi mới vào nghề thì chỉ tập lái thuyền trên những khúc sông lặng lẽ, hiền lành, nhưng cứ sợ sóng to gió lớn, mà quanh quẩn mãi trong những dòng sông ấy thì không bao giờ trở thành một thủy thủ giỏi. Muốn thành một thủy thủ có tài, có kinh nghiệm thì phải tập ra biển cả, chiến đấu với sóng to gió lớn; có như thế mới hy vọng một ngày kia vượt đại dương mà đến bờ bên kia. Cũng vậy, người tu hành muốn đến mức độ cao, phải tuần tự thử thách với các nghịch cảnh. Có gặp nhiều nghịch cảnh, mới lượng được sức lực, khả năng, chí khí, sự tu luyện của mình tới đâu. Những thử thách ấy cho mình nhận thấy tâm còn phiền não, nhiễm ô hay không, để trừ. Hành giả đến giai đoạn nầy, cũng giống như ly nước đã qua giai đoạn để yên và lọc cặn rồi, bây giờ đến giai đoạn phải bị lắc mạnh, để lọc lại cho hết sạch.

Bồ tát xem các nghịch cảnh là những phương tiện tốt nhất, để giúp cho mình chóng thành quả Phật. Bởi thế, Phật dạy : Đề bà đạt đa là thiện hữu của Ngài, vì nhờ có Đề bà đạt đa mà Ngài mau thành Phật. Nếu không có những hạng người như chàng Vô não, cô gái Ngoại đạo vu oan cho Ngài, vua A xà thế tìm cách hảm hại Ngài thì làm sao thấy được đức tính “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi” của Ngài ? Cũng vậy, nếu không có nàng Kỉnh tâm, thì làm sao hiển lộ được đức tánh Nhẫn nhục của Ngài Quan Âm Thị Kính ? Nếu không có Sa mạc Qua bích, núi Hy mã lạp sơn, thì làm sao thử thách được ý chí đi cầu Đạo dũng mãnh của Ngài Đường Tam Tạng ?

Người tu hạnh Bồ tát mà sợ gian khổ, trốn tránh nghịch cảnh, tìm chốn an tịnh, thì khó mà thành tựu đại nguyện của mình. Nhiệm vụ chính của Bồ tát là giúp đời cứu chúng sinh, nếu không thắng được nghịch cảnh, làm chủ được tâm mình, thì còn cứu độ ai được? Cho nên, để thử thách và điêu luyện bản lỉnh của mình, hành giả phải tìm nghịch cảnh mà đến, tìm trở ngại mà vượt qua, tìm gian nguy mà xông vào. Sự tu luyện của các vị Bồ tát; đi ngược với quan niệm thông thường về sự tu hành.

Đối với các vị Bồ tát, thì những nơi tối tăm nhơ bẩn, cũng đều là cảnh tu thanh tịnh của họ. Do đó, mới có câu: “Dâm phòng, tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” (phòng dâm, tiệm rượu, đều là đạo tràng thanh tịnh). Đứng trước một nghịch cảnh khó khăn, nguy hiểm ấy, mà hành giả thắng được, vượt qua được, thì sự tu hành mới thật là có giá trị lớn lao, siêu phàm, bạt tục. Người xưa có nói “Cây mọc trên đá sỏi, gỗ mới tốt; người gặp khó khăn, chí mới kiên”; hay: “Chiến đấu không khó khăn, thì chiến thắng không oanh liệt”.

Từ mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… Bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi đứng nằm ngồi, cũng đều là tu. Tất cả mọi sự mọi việc từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ một vi trần đến sơn hà đại địa, đều là pháp tu của Bồ tát.

Từ mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… Bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi đứng nằm ngồi, cũng đều là tu. Tất cả mọi sự mọi việc từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ một vi trần đến sơn hà đại địa, đều là pháp tu của Bồ tát.

Ý nghĩa tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng Đức

Thọ khổ để cứu chúng sinh là hạnh tu của Bồ tát

Các bậc tu theo hạnh Bồ tát, đã có Đại nguyện cứu độ chúng sinh, nên dù gặp khó khăn bao nhiêu, dù phải khổ sở bao nhiêu, dù phải hy sinh đến thân mạng đi nữa, các vị cũng vui lòng. Trong kinh điển, cũng như trong lịch sử truyền bá Phật pháp, đã có không biết bao nhiêu trường hợp, các vị Bồ tát; thọ khổ để cứu độ chúng sinh.

a) Bồ tát vì chúng sinh mà phạm giới sát sinh. Trong một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca, Ngài làm một nhà lái buôn, cùng 500 người vượt biển đi buôn xa. Khi thuyền đang lênh đênh ngoài biển cả, thì một tướng cướp xuất hiện, định đánh chìm thuyền và giết hết cả 500 người lái buôn để đoạt của. Trước cảnh nguy nan ấy. Ngài đã giết tướng cướp và cứu 500 người kia khỏi chết. Như thế là ngài đã phạm tội sát nhân, phải chịu quả báo, nhưng vì thương xót cho 500 người bị chết oan, và cứu cho tên cướp kia khỏi bị đọa vào ác đạo, mà Ngài phải ra tay không do dự.

b) Bồ tát vì chúng sinh mà phạm giới trộm cắp. Kinh Lăng nghiêm đối với Ấn Độ là một quốc bảo, nên các vua chúa đời xưa ngăn cấm nghiêm nhặc, không cho phép một ai được đem ra khỏi nước. Ai đem trộm kinh ấy ra nước ngoài, sẽ bị tội tử hình. Nhưng Ngài Bát Thích Mật Đế, đã vì chúng sinh, xẻ bắp đùi, nhét bộ kinh ấy vào, may lại mà đem đến Trung Hoa để truyền bá.

c) Bồ tát vì chúng sinh mà phạm giới uống rượu, và nói dối. Bà Mạt Lợi Phu nhân, để cứu mạng cho quan Trù Giám, đã phạm tội uống rượu và nói dối với vua.

Không cần dẫn chứng đâu xa, ngay tại Việt Nam chúng ta, trong “Vụ bảo vệ chính pháp” vừa qua, nhan nhãn không biết bao nhiêu bằng chứng về sự thọ khổ để cứu độ chúng sinh và bảo vệ Đạo pháp. Bằng chứng hùng hồn nhất là 7 vị Bồ tát đã tự thiêu thân, nhiều vị tăng, ni đã cam chịu cảnh đánh đập dã man tù đày nhục nhã, để nêu cao chánh Pháp và bảo vệ tín đồ.

Ở đây trước khi qua đoạn khác, chúng ta cũng nên phân biệt hai trường hợp khác nhau của sự phạm giới, nói ở trên để khỏi sự ngộ nhận: xét bề ngoài thì cũng đồng là phạm giới, như sát sinh, trộm cắp, nói láo, uống rượu; nhưng xét về động cơ thúc đẩy bên trong thì phàm phu và Bồ tát khác nhau. Bồ tát thì vì lòng từ bi và trí tuệ, vì mục đích lợi tha, cứu độ mà phạm giới. Các vị sáng suốt thấy; nếu mình không gánh chịu cái quả khổ, do hành động mê mờ tội lỗi của chúng sinh gây ra, thì chúng sinh phải trôi lăn mãi trong vòng khổ não, nên đứng ra chịu đựng thay cho chúng sinh. Bởi thế, quý Ngài giết người, không vì sân hận, trộm cắp không vì tham lam, uống rượu không vì thèm khát, nói láo không vì mưu lợi cho mình. Trái lại, chúng sinh phạm giới, hoàn toàn do dục vọng thúc đẩy, phiền não kéo lôi. Họ giết người vì hung ác, sân hận, trộm cắp vì tham lam, uống rượu vì ham dục lạc, nói láo vì khoe khoang, kiêu mạn là vì lợi riêng. Do động lực thúc đẩy khác nhau đó, mà quả báo của sự phạm giới, mặc dù không tránh khỏi, nhưng đối với các vị  Bồ tát thì nhẹ hơn.

Xem thêm video: "Đức Phật dạy về phương pháp làm chủ bệnh tật":

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Vì sao Đức Phật không cứu độ hết chúng sinh thoát khỏi khổ đau?

Kiến thức 20:09 02/11/2024

Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc đời của mình.

Lục hòa: Sáu pháp sống chung hòa hợp

Kiến thức 14:50 02/11/2024

Đây là phép sống chung hòa hợp để tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ. Người tu hành mà không học tập sống chung cùng đại chúng một cách hòa hợp thì khó mà tu tập thăng tiến.

Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa

Kiến thức 13:29 02/11/2024

Nhờ có trí tuệ thấy rõ khổ đau và thực hành Bát chính đạo cùng giáo lý Trung đạo, hành giả phát khởi Bồ đề tâm, hành trì Lục độ Ba la mật để dần đạt các cấp độ thành tựu trên con đường Giác ngộ.

Nói về Tứ niệm xứ

Kiến thức 10:40 02/11/2024

Học, hiểu và tu tập Tứ niệm xứ là rất cần thiết dù tu sĩ hay cư sĩ giúp ta sống chất lượng, sâu sắc ý nghĩa, thanh tịnh thân tâm, thành tựu đinh lực trí tuệ hướng đến an vui giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nỗi khổ niềm đau.

Xem thêm