Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ sáu, 30/07/2021, 15:35 PM

Dòng sông tâm thức: Kim cang (II)

Kinh Kim Cang là bộ kinh dùng trí tuệ Bát-nhã sắc bén chặt đứt sạch mọi vọng chấp (chấp ngã, chấp pháp hay chấp bốn tướng), đốn tận gốc vô minh phiền não của chúng sanh từ vô thỉ đến nay.

Tôi học kinh Kim cang

Phật dạy căn nhà lửa cháy của tham sân si cần chạy ra khỏi thì có người mê sắc dục thì Phật giảng chấp thật là Nguyên thủy. Có người ham mê danh vọng, cái tôi to lớn thì Phật giảng chấp giả là kinh Kim Cang. Đây là Phương pháp từ chối, phá chấp hay triết học tìm về bản chất bản tánh.

Kinh Kim cang có 32 phẩm chung qui lại chỉ nói những điều từ chối, có khi từ chối một lần, có khi từ chối hai lần: bất bất, phi phi, vô vô...thì mới đến khẳng định. Hai lần không mới thực là có.

Một hôm có đông quần chúng trên 10000 người qui tụ chờ Phật giảng. Phật bảo Xá Lợi Phất hãy ra giảng pháp cho quần chúng.

Xá Lợi Phất bảo: Bạch thế tôn, thế tôn dạy con không có pháp gì để giảng, mới là giảng pháp, sao thế tôn bảo con ra giảng pháp cho quần chúng được?

Phật trả lời: chính vì chúng sanh vô minh nên có pháp để ông ra giảng pháp mới đúng là giảng pháp. Kinh Kim cang đại loại nói như thế. Vì vô minh nên chúng sanh cho pháp có thật, các pháp là thật nên Xá Lợi Phất có nhiệm vụ ra thuyết pháp đó cho chúng sanh biết nó là giã, là không có pháp vì pháp đó do mắt chúng ta nhìn hình tướng rồi đặt cho nó cái tên và cho nó hiện hữu trong thức của ta. Hình tướng là cái óc phân tích não bộ của chúng ta gán cho chúng mà có, chứ thật tướng của chúng là như thị, không do cái ngã chúng ta xen vào mới thật là tướng chân thật.

Có nên tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã không?

kim-cang 1

Qua Duy thức luận chúng ta hiểu rõ hơn về Kim cang kinh, mặc dầu Kim cang có trước khi Duy thức ra đời. Có rất nhiều người giải thích ý nghĩa của Kim cang qua sự từ chối phá chấp này cho tất cả các pháp, vì kinh này là cốt tủy của đạo Thiền tông. Mọi người nghe giảng kinh này cho rằng đạo Phật là đạo bi quan yếm thế và hư vô chủ nghĩa. Cái gì cũng đều cho là huyễn ảo không có thật. Trong khi cuộc sống chúng ta là thật, là có nhà cửa xe cộ vợ chồng, có nghề nghiệp sinh sống bịnh tử điều trị bịnh của thân. Tại sao ta không tu thân, không chấp cái thân mà cứ chạy tìm cái tánh để kiến tánh thành Phật, là điều hư vọng, hư vô yếm thế vì cho nó là huyễn ảo. Khi thân bịnh hoạn thì không chấp thật là làm sao?

Khi bịnh dịch Covid-19 đang lan tràn mà không chấp thật để trị liệu mà lo tìm cái bản thể cái tánh của nó làm gì? Đức Phật đi giảng 29 năm về Bát Nhã chỉ để nói lên điều huyễn ảo này. Tại sao vậy? Vì chúng sanh còn cái tôi, cái ngã cái tham về danh, dù đã xuất gia đi tu lìa ái dục dễ dàng nhưng hành giã các bậc tu hành không diệt được cái ngã, cái danh vọng và quyền uy. Phật phải giảng Kim cang Bát nhã là vậy. Triết học ngày nay luôn cho rằng các pháp vũ trụ, bao gồm hiện tượng và bản chất. Hiện tượng là có hình tướng luôn luôn thay đổi vô thường, còn bản chất là vô tướng thì không thay đổi đứng đằng sau hiện tượng.

Vậy muốn tìm bản thể thì phải dẹp, quên đi hay diệt đi cái hình tướng đó mới thấy được bản chất. Mà bản thể là chân như là Tánh của hiện tượng. Đó là giác là biết, nhận biết bản tánh của hiện tượng nên đúng là lìa tướng tức giác. Bố thí của Bồ tát cũng vậy. Ba la mật bố thí là không dựa vào hình tướng là có 4 tướng: ngã nhân chúng sanh và thọ giả. Đó là tướng của tôi, tướng người đối diện, tướng của mọi người và tướng của thời gian tuổi tác của người là thọ giả. Bố thí Ba la mật là bố thí mà không cần biết người bố thí, người nhận bố thí và số vật bố thí. Tại sao vậy? Bố thí của Bồ Tát là vượt qua cái tôi, ngã của mình. Thiền tông theo kinh Kim cang là tu diệt ngã diệt cái tôi, rồi diệt tham danh là diệt chấp thật. Chúng ta có sanh ra là có óc phân biệt, phán đoán của não bộ là hình tướng của thân ta. Vậy bản tánh chân tâm Phật tánh của ta nằm ở A Lại Da thức có sẵn, làm sao thấy nhận biết được? Dĩ nhiên nhận biết tánh vô tướng đó phải từ bỏ cái tướng, cái thân cái óc suy luận não bộ thì mới nhận biết Tánh như mây tan trăng tỏ.

Thiền sư Suzuki gọi là thiền định là khán tâm và kiến tánh. Khán tâm là tích cực quán chiếu tìm thấy tâm, một cách tích cực của thiền chỉ và thiền quán Tứ Niệm Xứ. Còn kiến tánh là để tự nhiên không tích cực, vận dụng quán chiếu gì cả để tự nhiên óc phân biệt mờ đi, mất đi thì bản tánh tự nhiên lộ ra như mây tan trăng tỏ. Đó là thiền tông vô niệm của lục tổ Huệ Năng. Thiền tông không theo thiền định, thiền quán là ở điểm mấu chốt này. Một bên tu thiền là cố gắng chỉ định về một điểm rồi mới quán chiếu thân thọ tâm pháp để tuệ giác loé ra. Một bên thiền tự nhiên cảm nhận, từ chối phá chấp hết các pháp, các chỗ dựa bám vào, thì tánh sẽ tự nhiên lóe ra là giác. Đây là cuộc cách mạng của Lục tổ Huệ Năng đưa đến một thời rất đông người đi theo tu tập Thiền. Với quan điểm kiến tánh như vậy nên không cần học kinh Phật nhiều, vì học càng nhiều thì kiến tánh càng khó khăn vì óc phân tích của não bộ càng hoạt động nhiều. Óc phân tích não bộ là tướng là thân của ta, vậy muốn kiến tánh thấy chân tâm ta thì hãy từ bỏ hình tướng của thân ta. Lìa tướng tức giác.

Việc này đúng theo câu bất lập văn tự kiến tánh thành Phật. Kinh Kim cang ảnh hưởng của Lão giáo Trung Hoa nên đưa ra luận cứ tứ cú là bất bất vô vô phi phi để khẳng định hữu là có. Rất đông người giải thích hiện tượng này của Kim cang nhưng theo khoa học phân tâm học, thì chúng ta hiểu bản thể vô tướng nằm đằng sau hiện tượng bị hiện tượng che mờ. Tìm bản chất thì phải đẹp bỏ hiện tượng đi. Nhưng khi nhận biết được bản chất rồi thì ta nên quay về hiện tượng, chấp nhận cái thực chất của hiện tượng mà kết hợp với bản chất. Bản chất thì bất động bất biến, còn hiện tượng thì biến đổi không ngừng nhưng biến đổi của chúng chỉ xoay quanh bản chất mà thôi. Chúng đổi thay nhưng không thoát ra ngoài bản thể. Thí dụ như nước là hiện tượng gồm sóng, thể lỏng, thể hơi, biến đổi liên tục nước biến thành mây bay, nhưng bản chất ướt của nó dù bất cứ hình tướng nào cũng là ướt. Áp dụng vào tu tập, chúng ta thấy tu than, tu Nguyên thủy rồi chúng ta tu tánh, tu tâm theo Kim cang đại thừa rồi sau cùng kết hợp cả hai lối tu này mà thực hành. Bắt đầu thì thiền định thiền quán Tứ niệm xứ, rồi ta tu thiền vô niệm kiến tánh sau khi khán tâm. Kiến tánh để thấy biết tánh rồi thì quay lại tu thân Nguyên thuỷ. Cứ kết hợp nhuần nhuyễn cả hai lối tu này là việc hoàn mỹ của đạo Phật. Diệt tham sân si của ái dục lẫn tham danh vọng, tham ngã chấp. Khi tu kiến tánh để cấy vào A Lại Da thức chủng tử thiện tạo nghiệp thiện, rồi kiến tánh nhờ vô niệm, làm xóa dần nghiệp kiếp trước. Xong kết hợp tu Nguyên thủy Tứ niệm xứ, diệt lậu hoặc, quán thân thọ tâm pháp để diệt lậu hoặc phiền não của thân ta, của tướng trạng ta. Như vậy thân ta tu là bảo vệ sức khỏe mạnh sống mà thiền quán. Nếu để thân ta bịnh yếu đi thì làm sao thiền kiến tánh được? Chạy theo kiến tánh mãi mà quên đi tu thân ta mạnh lành, thì làm sao tuệ giác loé ra được.

Sáu pháp thành tựu trong Kinh Kim Cang

Như vậy tuy quán chiếu tánh không của Bát Nhã Kim cang nhưng ta vẫn giữ: trong không có có và trong có có không. Tất cả tuỳ duyên mà bất biến. Do duyên mà có thì có sẵn không trong đó, rồi tuỳ duyên nên không có có trong đó. Không và có là hai thái cực không bền vững đứng yên nên nó di chuyển qua lại theo Trung quán luận Dịch hoá pháp. Tu theo Kim cang kinh là sao? Là diệt ngã, là phá chấp, từ bỏ mọi chấp ngã chấp pháp và chấp chứng đắc, đạt được quả vị A La hán hay Phật. Muốn vậy ta phải thiền định.Thiền định có hai cách là khán tâm hay kiến tánh. Tùy theo ta chọn một trong hai đường lối này mà tu tập. Theo thiền tông thì tu vô niệm của lục tổ Huệ Năng là kiến tánh, còn tu theo các pháp môn khác thì khán tâm. Các tông phái khác thì khán tâm trong đó Nguyên thủy dùng Tứ niệm xứ mà thiền quán thiền chỉ. Như vậy quán như huyễn ảo chỉ xảy ra trong thiền định mà thôi. Khi sống thực tế thì biết chấp thật ở hiện tượng và chấp giả ở bản thể.

Theo TT. Thích Trí Huệ giảng về kinh Kim Cang: Pháp là thật tướng của vũ trụ mà Phật chỉ cho chúng ta biết chứ Phật không sáng tạo ra pháp. Ta tụng kinh Phật là mở ra tuệ giác, như Pháp Hoa kinh là Phật nói về chủng tử Phật là Phật tánh.Hoa nghiêm kinh là thế giới hoa tàng huyền môn do nhân duyên trùng trùng duyên khởi. A di Đà kinh là cảnh giới trang nghiêm thù thắng thanh tịnh, mà chúng sanh có thể về được cảnh giới đó.Dược sư kinh là cảnh giới đông phuơng cực lạc, do Phật giáo chủ 7 dược sư lưu ly cứu 7 bịnh chúng sanh. Kinh Kim cang Bát nhã là 600 quyển do Huyền Trang thỉnh về Trung Hoa gom lại thành 6 quyển rồi thành Kim cang kinh và sau cùng là 260 chữ Bát Nhã Tâm kinh.

Như vậy Phật có 3 học thuyết: Phật tánh, A Di Đà, và học thuyết Tánh Không là Kim cang kinh nói về trí tuệ Bát Nhã. Kim cang là hột xoàn là đẹp, là cứng bậc nhất, là giá trị quí báo nhất để nói về tâm chúng sinh, biểu hiện nguyên lý về vũ trụ, trí tuệ Bát nhã là hiểu biết sự thật về 6 căn. Đó là 6 căn tiếp xúc 6 trần tạo 6 thức là khổ phiền não lậu hoặc. Sự thật nó là như huyễn như bào ảnh như điện chớp như hạt sương. Quán chiếu nó như thế để hiểu sự sanh diệt do duyên, đủ điều kiện duyên thì nó có, không đủ thì nó không có, trong không có có, trong có có không. Bản chất nó là không nên quán chiếu 5 uẩn cũng vậy, sự sanh diệt luân hồi và lồng vào nhau là đặc tánh của chúng. Chúng sanh mê lầm nhìn cho là có nhưng thật sự nó là không. Kim cang dạy ta phá chấp ngã là chấp về mình, về tự ngã của mình, về thuộc về mình. Kim cang dạy tất cả pháp đều là Phật pháp. Nhãn là góc nhìn về pháp nên Phật có: nhục nhãn, tuệ nhãn là phân tích hiểu biết, thiên nhãn là biết cõi trời, pháp nhãn là nhìn 5 uẩn 4 đại là sự thật, Phật nhãn là biết hết tất cả không ngăn che. Pháp được hiểu là vạn pháp, là Phật pháp lời Phật dạy, ngã pháp là cái gì thuộc về tôi, đối đãi xung quanh tôi và Pháp Dharma viết hoa là chân lý tối thượng là sự thật. Các pháp là hiện tượng nên sanh diệt vô thường nhưng bản chất là không sanh diệt. Tu tập không có chứng đắc vì Kim cang Bát nhã cho rằng chúng ta có đầy đủ lậu hoặc phiền não, nay tu tập là bỏ đi phiền não này. Bỏ đi được bao nhiêu là tu tập chứng đắc bấy nhiêu, chứ không có gì đạt được, lấy từ ngoài mang vào nên hiểu chứng đắc là từ chối. Lậu hoặc gồm có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, ngăn che là triền cái còn trói buột là kiết sử. Tu tập là quán chiếu 5 uẩn, quán chiếu 4 niệm xứ thân thọ tâm pháp, thiền định, đoạn diệt (Nguyên Thuỷ).

Giảng kinh Kim cang như được kể trên tức là không dựa vào hình tướng, không dựa vào âm thanh, phá chấp không bám không trụ, các pháp như huyễn ảo. Kim cang kinh có đoạn nói về pháp và phi pháp. Này Tu Bồ Đề, qua bên kia sông thì chiếc bè pháp cũng từ bỏ, nói gì đến phi pháp thì pháp ở đây là Phật pháp, còn phi pháp ở đây là ngã pháp. Phật dạy khi giác ngộ thì từ bỏ thì làm gì, có gì mà gọi là chứng đắc.

Kết luận:

kim-cang 2

Tôn giả Tu Bồ Đề chứng Giải Không đệ nhất khi nghe Đức Phật giảng về Kinh Kim Cang

Kinh Kim cang là bộ kinh dùng trí tuệ Bát-nhã sắc bén chặt đứt sạch mọi vọng chấp (chấp ngã, chấp pháp hay chấp bốn tướng), đốn tận gốc vô minh phiền não của chúng sanh từ vô thỉ đến nay. Nên kinh này được ví như ngọc Kim cang có thể chặt đứt mọi sắt thép cứng rắn mà không bị hư hoại. Vì công năng phá chấp đặc biệt này, kinh Kim cang đã được tu sĩ cũng như giới cư sĩ, nhất là giới nghệ nhân hành trì và truyền bá rộng rãi.

Kim cang lấy Tu Bồ Đề ra làm người đối thoại với Phật. Tu Bồ Đề là đệ nhất đệ tử của Phật về Không. Kim cang lấy tâm làm điểm để tu tập là hàng phục an trụ tâm. Tâm gồm vọng tâm và chân tâm. Vọng tâm là tâm dựa vào hình tướng mà hình tướng thì vô thường, thay đổi sinh diệt. Chân tâm thì không sanh diệt và bất biến thường hằng. Làm sao biết mình có chân tâm? Chân tâm Phật tánh là cơ bản có sẵn trong Tàng thức ta khi đầu thai kiếp người.

Nhìn em bé mới sanh ra chưa biết gì chúng cũng có phản ứng biết thương em bé khác khi em này khóc thét lên đòi đồ chơi. Vậy cái gì làm em bé biết nhường đồ chơi cho bạn mình hết khóc? Đó là lương tâm là đạo đức tánh trong vô thức của chúng theo phân tâm học hiện đại ngày nay. Phân tâm học cho ý thức tiềm thức và vô thức như tảng băng trên biển, phần nổi là ý thức còn phần chìm là tiềm thức và vô thức. Vô thức đáy tảng băng rộng to chứa dục tánh và đạo đức tánh, với vô ký tánh không thiện không ác. Vô thức nầy kiểm soát hết hai phần còn lại. Lương tâm chính là chân tâm là Phật tánh của chúng ta. Học phân tâm học làm bác sĩ tâm lý để chữa bịnh tâm lý cho người, là dùng tâm lý để điều khiển vô thức làm việc.

Trong khi đạo Phật dùng thiền định để điều khiển an trụ tâm, điều phục tâm cũng tương tự như Phân tâm học dùng vô thức để chữa bịnh tâm lý. Một trong việc điều phục tâm an trụ tâm là thiền theo kinh Kim Cang. Lối lý luận theo kinh là lối lý luận từ chối theo tứ cú lão giáo Trung Hoa. Không phải A rồi không phải không phải A mới đích thật là chân thật A. Điều này theo lý luận phân tích thời nay là điều hư vô không tưởng. Nhưng tu theo Kim cang là thoát óc phân tích lý luận của não bộ, nên ta không thể kết luận như vậy được. Chúng ta cần biết mục đích tối hậu của Kim cang là làm cho ta từ chối và phá chấp, để cho tâm ta thuận theo tự nhiên như thị của vạn pháp mà nhận biết thật tướng của chúng. Thoát ra được khỏi cái tôi cái chấp ngã chấp pháp của chúng ta, là một điều tu tập đầy khó khăn. Đó là điều ngộ đạo cần thiết to lớn vô cùng. Tuy lý luận bất bất này nghe lập dị mâu thuẫn, nhưng cái kết mang lại thì vô cùng sâu rộng là diệt tận cùng bản ngã cái tôi, diệt tận cùng chấp pháp là tuệ giác mở rộng ra dễ dàng.

Nhận biết thấy được thật tướng các pháp là đạt ngộ đạo cao nhất. Mà muốn thấy chúng thì ta phải từ bỏ cái tôi cái chấp, cái thức của Mặc Na thức gán cho chúng sự hiện hữu. Quy theo Duy thức luận, Kim cang kinh, quán chiếu của thiền định đều mang lại cùng một kết quả: giác ngộ giải thoát phiền não. Nhiều vị tu hành đã lâu diệt được ái dục, nhưng cái ngã vẫn chưa diệt được và tham danh, tham uy quyền vẫn còn nhiều, vẫn còn thích đi có người quỳ phục lạy, nói có người nghe không dám chống đối, tạo bè phái, tông phái là cá tánh độc nhất ở đông phương, thay mặt Phật mà ban phước cho chúng sanh, thì kinh Kim cang là bài thuốc trị rất hiệu quả. Thế mới hiểu tại sao khi kết luận Kim cang kinh là 4 câu kệ mà so sánh như huyễn, như mộng như ảo có đến 9 so sánh. Kim cang có câu Phật dạy khi qua sông đến nơi, thì bè là Phật pháp cũng bỏ nói chi đến phi pháp. Như vậy chưa đến nơi còn ở trên sông, thì cần có chiếc bè Phật pháp chứ. Việc này phải được hiểu rõ để cho các vị tu tập, hành giả tăng ni thường giảng chân đế coi như mình đi qua sông bên kia xong rồi, nên mang cái chân đế ra giảng.

Trong khi chúng sanh đang nghe là còn ở trên sông, nên cần chiếc bè. Mình giảng mang chân đế là những cái đắc chánh giác ra mà nói, thì làm gì chúng sanh vô minh hiểu được, chỉ biết hô khẩu hiệu mà không có tu hành. Như chưa ngộ đạo mà cứ nói tánh không Phật tánh mãi làm sao ai hiểu đạo? Chưa giác mà cứ nói ra là bất nhị, là bỏ tâm phân biệt thì ai hiểu? Chưa giác mà đòi hủy bỏ tượng Phật, tượng Quan Âm đòi đốt tượng Phật, làm như ta ngộ đạo bỏ hình tướng theo kinh Kim Cang. Chưa ngộ đạo mà đòi cho tướng pháp là ảo, nhà ta ở vợ chồng con cái là huyễn ảo không thật chấp vào đó mà đòi huỷ bỏ là sao? Hiểu sai Kim cang lý luận rằng không ăn thì mới thật là ăn là làm sao? Phải diệt ngã nên không có cái gì đúng sai, mà chỉ có thiện ác, chánh tà vì đúng sai là do cái ngã ta cho ra để kết luận. Mọi hành động ta đều nhớ diệt cái tôi mỗi ngày. Sáng thức dậy đánh răng phải quán là đánh răng chứ không nói tôi đánh răng, như vậy mới diệt ngã được. Phải nhớ rằng chưa qua bên kia bờ thì chiếc bè vẫn còn cần có.Đạo Thiền tông lấy kinh Kim cang làm cốt lõi tu tập nên nhiều thiền sư sáng tác các thơ văn rất nhiều. Từ Đạo Hạnh có mấy câu thơ: Có thì có tự mẩy may. Không thì cả thế gian này cũng không. Có không như trăng nuớc. Đừng chấp có với không.

Ngài Phổ Đại Sĩ có bài kệ: Chưa có, cảnh không tâm; Từng không, tâm không cảnh.

Cảnh quên tâm tự diệt; Tâm diệt cảnh cũng không.

Trong kinh gọi thật tướng; Lời diệu lý lại sâu.

Chứng biết chỉ có Phật; Tiểu thánh dễ nhận đâu!”.

Cũng như câu thơ sau: Chư pháp tùng bản lai,Thường tự tịch diệt tướng.

Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề liễu thượng.

Hay câu thơ: Thấy sắc chẳng phải sắc, Nghe thinh chẳng phải thinh,

Sắc thinh đều vô ngại, Tự đến pháp vương thành. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!!

Tham khảo:

1. Đọc và hiểu Kim Cang- Trịnh nguyên Phước - Cư sĩ Paris.

2. Kinh Kim Cang giảng giải - HT. Thích Thanh Từ - Truclambachma.net.

3. Kinh Kim Cang - Thích trí Huệ - Youtube.

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Dấu ấn của Phật giáo thời Trần

Nghiên cứu 09:40 15/11/2024

Thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…, mà còn độc lập, tự chủ về hệ tư tưởng làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại Việt thế kỷ XIII – XIV.

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường

Nghiên cứu 09:45 03/11/2024

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên...

Những đóng góp của Hòa thượng Thích Minh Châu trong công tác ngoại giao Phật giáo

Nghiên cứu 09:45 19/10/2024

Di sản mà Hòa thượng để lại không chỉ là nền móng vững chắc về giáo dục và ngoại giao, mà còn là kim chỉ nam cho chúng ta tiếp tục phát triển, đưa tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật lan tỏa rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình.

Lợi ích của Thiền tứ vô lượng tâm trong đời sống xã hội

Nghiên cứu 09:30 06/10/2024

Có thể nói rằng Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp.

Xem thêm