Duy thức học với máy tính (P.1)
Thông thường con người khi sử dụng máy vi tính gặp rõ ràng cái công năng đối chiếu là căn cứ theo tài liệu truyền vào mà có, chỉ cần chuyển tài liệu đến cho người quá ư tự tín khi đặc tính tài liệu đó có thể tin cậy, lại nhận lấy tài liệu của điện não khác chẳng giống như nó. Lúc ấy liền sản sinh một thứ thái độ cố chấp tự mê, chẳng chịu nghe theo ý kiến của người khác.
Phật pháp thì nắm được nguyên nhân trong đó giải thích thật rất rành mạch, sự giải thích này chính là ở nơi Duy Thức bình luận rõ ràng. Phật pháp chỉ bày trong tâm chúng sinh phát khởi biến hoá các thứ niệm tưởng đều do tám Thức mà có. Tám Thức này lại có một thứ quan hệ lẫn nhau làm cho công năng của nó trở nên phức tạp và tinh tế. Các thứ tổ chức trong não bộ chẳng qua chỉ là điều kiện phụ trợ, là dụng cụ chuyên môn của công năng phát huy mà thôi. Cần nói rõ hơn con người dựa vào đâu có nghiệp lực, dựa vào đâu bị luân hồi, thành đạo như thế nào, tốt nhất là trước hết phải biết rõ sự lợi hại của “Thức”, nếu như hiểu rành máy vi tính trước rồi sau đó nghiên cứu Duy Thức thì có thể thích hợp hơn.
Tôi viết quyển sách này là dụng ý thỉnh mời mọi người tham gia vào tri thức để lãnh hội đạo lý trong Phật pháp. Phật điển thì cao thâm, nhưng ở trong sinh hoạt thường ngày đều có thể lãnh ngộ được đạo lý trong Phật pháp. “Vạn Pháp Duy Thức”, người tu hành không luận tu pháp môn nào cũng đều tốt cả, tất nhiên ở trong pháp môn đó cần phải có một nhận thức rành mạch thì mới nên bắt đầu chọn lấy pháp tu, hơn nữa không đến nỗi khi đã thâm hậu môn phái mình thì không lạnh nhạt pháp môn khác. Nguyên lý máy vi tính đã thấu suốt mà đi học Duy Thức thì sự học tập cụ thể hơn, cho nên chúng tôi hiểu được đây là một bước đầu nhập môn hết sức trọng yếu.
Lời nói đầu của Trương Thông Văn nơi Thông Uyển Tịnh Cư
Máy vi tính nếu ở gốc độ đơn giản là thay thế người kế toán, còn ở gốc độ phức tạp là có thể cùng người đối thoại. Kế toán cũng đúng và đối thoại cũng hay, chúng nó đáp và hỏi đều là căn cứ theo trong bộ phận tàng trử tài liệu mà ra. Chỉ do nơi tài liệu truyền vào thì kỹ thuật cao cấp khiến cho máy vi tính bổng nhiên phát hiện cá tính của một con người có thể cùng với chủ nhân thảo luận sự lý, đánh cờ, bài bạc, thậm chí phát sinh tính tình gắt gỏng.
Bởi vì những kiến thức ngày xưa nhiều đời nhiều kiếp của chúng sinh đều là được xây dựng trên cơ bản phiền não như tham, sân, si, mạn, nghi..v..v.…, nếu như không phải thế thì không bị luân hồi thọ khổ, cho nên Phật Pháp gọi những tri kiến điên đảo đã thâu chứa này là “Nghiệp”, mà từ những thứ tri kiến này bắt đầu phát huy thứ năng lượng mê muội cho mình và cho người khác gọi là “Nghiệp Lực”. Hiện nay chúng sinh đương nhiên vẫn cứ truyền vào những tài liệu mới, chỉ cần những tài liệu truyền vào này quyết định hoà hợp là kẻ hở hết sức không tốt cho việc đối chiếu, nguyên vì sử dụng những tri kiến trước đó làm tiêu chuẩn cho nên cũng vẫn là điên đảo, khiến nghiệp lực càng thêm gia tăng.
Hiện tượng điên đảo như thế xảy ra là do chưa có phản ứng đối chiếu trước khi từng bước duyệt xét. Có công năng đối chiếu đây chính là Thức “Mạt Na” của Tư Lương Năng Biến (công năng biến hiện suy nghĩ đắn đo) và cũng chính là Thức thứ bảy. Ở trong máy vi tính cũng có một bộ phận như thế, chuyên phụ trách đối chiếu thứ tự. Khi đang kiếm tài liệu hoặc tìm câu trả lời, máy vi tính tiến hành trước là căn cứ theo chương trình tài liệu của bộ phận tàng trử làm một việc đối chiếu, nếu như phạm vi tài liệu tồn tại không có chương mục để hỏi, máy vi tính lại bày tỏ không thể trả lời. Còn một cái máy vi tính dùng vào việc sửa chữa xe hơi là để xem phương pháp giải đáp có quan hệ kiến trúc hoặc vấn đề khác của nó, thường gọi việc ấy là nguyên nhân.
Tri kiến của chúng sinh phải trải qua sáu căn mà truyền vào hoặc truyền ra, nhưng truyền ra hoặc truyền vào ở trong bước đi tất nhiên phải trải qua sự đối chiếu của Thức thứ bảy. Thí dụ như đương lúc con mắt xem thấy đông tây giống nhau, đồng thời không thể khởi tác dụng. Lúc đó Thất thứ bảy mới y cứ nơi chỗ chứa tri kiến củaThức thứ tám mà phát khởi sự đối chiếu. Như trong ấn tượng này đồ vật làm có lợi hoặc tốt đẹp thì Thức thứ bảy tự tiếp công hàm quyết định của Thức thứ sáu tạo nên ưa thích mà Ý Thức liền có thể trực tiếp khiến cho con mắt xem đồ vật ấy lâu hơn, khiến các bộ phận cơ thể khác tạo nên một phản ứng liên hệ, khiến cho nghiệp của Thức thứ tám càng sâu thêm, mà liên lụy đến nghiệp luân hồi của chúng sinh cũng càng thêm nặng.
Nguyên do Thức thứ bảy quản lý công năng đối chiếu, liền khởi lên chấp trước vui mừng và chán ghét, đồng thời quan niệm có một cái “Ngã”. Quan niệm việc ấy chỉ là một thứ cảm giác sai lầm, tạm có hư huyển, cho nên gọi là “Giả Ngã”. Cho nên khi người mừng vui không biết cái “Ngã” ưu sầu ở đâu, khi người ưu sầu lại dẹp cái “Ngã” lúc mừng vui không cho đến. Sự cảm thọ tư lương (suy nghỉ đắn đo) của con người biến hoá nhiều đầu mối, mỗi lúc mỗi loại, cho nên “Giả Ngã” cũng thiên biến vạn hoá theo, đưa đến kết quả đều là khổ. Vẻ già trước tuổi thì lại hiện ra rất rõ ràng. Tư tưởng của con người càng phức tạp, “Giả Ngã” biến hoá cũng nhiều, hơn nữa già yếu hưởng càng nhanh. Nhưng “Giả Ngã” thì không có luật định dừng lại, trừ phi nghiệp hoàn toàn cải biến trong Thức thứ tám. Chúng sinh phàm phu đã bị nghi ệp lực ràng buộc, cho nên không thể thoát khỏi cái khổ già và chết.
Ngược lại như các tri kiến truyền vào qua sáu căn, trong Thức không khởi phân biệt là các tri kiến không thể nhiễm trước tâm niệm, cho nên phàm phu cũng hiểu biết mà không thấy, cũng nghe mà không nghe, hoặc ăn mà không biết mùi vị của nó. Nhưng chân chính không bị nhiễm trước là sau khi được thật chứng bốn trí, tức là Trí Đại Viên Cảnh, Trí Bình Đẳng Tính, Trí Diệu Quan Sát và Trí Thành Sở Tác, thì tâm lúc đó mới có thể không thọ nhận các cảnh chuyển biết và tự do ra vào mười pháp giới không sinh phiền não.
Bấy giờ do vì muốn duy trì cái địa vị danh dự tối cao ấy của nó mới nhiều cách thu thập tài liệu truyền vào điện não này, lâu ngày tạo ra cá tính tham nhiều, liền thành “Điện Não Điên Cuồng”. Thức thứ bảy cung cấp những cảm giác sai lầm của chúng sinh cũng giống như thế, nguyên do nó lấy tri kiến trong Tạng Thức làm căn cứ, thường khởi lên cái tự ngã tham ái, trong đó có cái tham của phiền não căn bản. Lại nữa nó thường cho cái ngã là tối thượng, nên chấp trước điên đảo tính mù quáng, trở thành đại si đại mạn, khiến cho ngã chấp liên tục không dứt, không có thể tự thoát khỏi.
Thí dụ như con người do chủng tử nữa thiện nữa ác lại cộng thêm ngoại duyên để sinh ra quả dị thục, được thân con người kiếp sau thì đã quên hẳn thân kiếp trước và cũng không biết hậu quả như thế nào. Mặc dù cùng một điều kiện nơi Dị Thục Năng Biến mà sinh làm người, cũng có nhiều thứ phẩm loại, như nghèo, giàu, hiền, ngu..v..v.... trừ ngoài chủng tử ra nên biết còn có các nhân tố khác, như nghiệp lực đời trước và các thứ duyên số..v..v.... Cho nên dù rằng là đồng chứng quả Đẳng Lưu, ý kiến, tư tưởng, khẩu vị của mỗi người đều có chỗ không giống nhau. Về điểm này, nguyên nhân như thế nào cần nên nói rõ là người phàm phu ở cõi Ta Bà chỉ giác ngộ nhơ nhớp, còn Phật Đà trụ ở cõi Ta Bà lại thấy hoàn toàn là lưu ly.
Còn việc quét dọn sạch sẽ thì có cơ giới của điện não không từ khó nhọc thay thế con người khống chế lấy và mỗi ngày 24 giờ công tác không đình chỉ cũng nên sử dụng nó. Lúc bấy giờ con người hoàn toàn không phải đi làm, chỉ cần ở trong nhà ráp mở cho xong hệ thống điện não, trong đó bao gồm cả truyền hình và dụng cụ chuyên chở cho đến không luận hội họp hoặc thảo luận không cần ra khỏi nhà mà vẫn có thể hoàn thành.
Danh từ bưu điện đã thành công trên lịch sử, nguyên vì tất cả thông tin đều có thể trao lại qua hệ thống điện não mà đi lại nhanh chóng. Không chỉ mau lẹ mà lại còn có hệ thống phiên dịch, người giao việc có thể dùng bất cứ ngôn ngữ gì để truyền vào điện não, khi truyền ra đến nơi quốc gia nào, ngôn ngữ này cũng được phiên dịnh thành văn tự của quốc gia đó. Còn thứ điện não phiên dịch này cũng được đặt nơi trên máy điện thoại, con người cũng có thể dùng bất cứ ngôn ngữ nào để nói chuyện, đối phương khi tự nhận được liền phiên dịch và truyền đạt ngay.
Mặt ngoài xem đến điện não giúp cho nhân loại mang đến sự tiến bộ và tiện lợi, nhưng khi phát triển quá độ, nhân loại trở nên bị nô lệ mà không tự biết. Đến lúc nào đó, vật thực quá nhiều không thể phối hợp với hệ thống điện não nhà bếp đều bị đào thải hết, y phục không hợp với hệ thống điện não giặt áo thì không còn chế tạo trở lại lần nữa. Đồ dùng trong học đường, máy móc của y viện, thiết bị của quân sự, công cụ giao thông, đồ vật vui chơi không có vật nào mà không chịu sự khống chế của điện não cả.
Giống như ngân hàng bổng nhiên gởi lại biên bản nói về khoản tiền đã chi tiêu vượt quá số thu, như thế không khiến người ta chấn động sao? Dưới đây chỉ cần tra xét sự phát xuất sai lầm của điện não. Nhưng hiện nay sự sinh hoạt của con người chưa đến nỗi hoàn toàn ỷ lại vào trình độ của điện não, cho nên chịu ảnh hưởng không lớn. Chỉ chờ đến khi nhân loại phần lớn ỷ lại vào điện não, sẽ có một sai sót là nó ảnh hưởng nhất định rất lớn.
Nói về phương diện cá nhân, điện não trong nhà hoàn toàn hư hỏng khiến không có cơm ăn, không có điện xem xét, lại nữa hoặc không thể mở được xe hơi, hơn nữa nhơn cung cấp sai lầm khiến cho uống lộn thuốc..v..v.... Về phương viện xã hội, điện não sinh ra tình trạng hổn loạn từ đó khiến giao thông xảy ra tai nạn, công xưởng sản xuất giảm thiểu, kinh tế thất thu..v..v.... Về phương viện quốc tế, điện não sinh ra việc không may lại không được chi cả, nếu nhẹ có thể khiến cho quốc tế phát sinh tình trạng khẩn trương và hiểu lầm, nếu nặng lại có thể gây ra chiến tranh thế giới.
Cho nên nơi trong thế giới điện não sau này, sự an nguy của con người không thể dự biết, cũng không phải chỗ con người có thể thao túng. Con người sinh hoạt ở trong thời đại như thế, mặc dù có kỳ vọng điện não hằng ngày đừng có thác loạn.
Tuy nhiên nó sẽ khiến không phát sinh thác loạn nhưng lại phát sinh sự đe dọa tổn hại. Sự tổn hại ở đây là điện não hoàn toàn không thể chuyển đổi, sẽ hình thành nhiều sự bất tiện, khiến con người bị kim tiền, thời gian, công tác, thậm chí tổn thất trên ái tình cũng có thể nói là bất định. Sinh hoạt như thế tự nó có một mặt đáng sợ, mà Phật giáo nói rằng “Các thọ là khổ” đến lúc đó con người có thể cảm thọ được trọn vẹn, khác nào chân đã lún sâu vào đất, ngoại trừ hoàn toàn tiếp thọ sự chi phối của văn minh vật chất, bằng như không thế con người có khả năng nêu ra biện pháp gì để giải quyết.
Trích trong: Duy thức học với máy vi tính điện tử
Tác giả: Trương Thông Văn
Việt dịch: Thích Thắng Hoan
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sống Đẹp
Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng
Nghiên cứu 15:55 17/04/2024Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala
Nghiên cứu 10:10 05/04/2024Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.
Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người
Nghiên cứu 18:00 02/04/2024Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.
A lại da thức và Mạc na thức
Nghiên cứu 09:00 16/03/2024Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.
Xem thêm