Giác tâm trầm tịch cõi thi ca
Thơ phát ra từ đó, nhẹ nhàng như hơi thở, vừa lâng lâng bay bổng vừa bồng bềnh, thênh thang… Tiếng thơ ngân dài, đồng vọng lên từ phương lòng trong trẻo đầy chim ca lảnh lót hòa lẫn suối khe róc rách reo vang. Ngàn hoa nắng trổ ngát hương trời vạn cổ dưới những vùng thung lũng mù xa, chập chùng bóng rừng sâu hun hút, hoang lạnh buốt mưa chiều. Thơ bay phiêu phất hồn trăng vạn đại, vụt hiện lóe ngời thời nguyên thủy, sơ khai… Thần thái mang mang, thi sỹ đi về ngơ ngác, ngạc nhiên trước sự huyền bí của cuộc sống muôn loài, vạn vật trên mặt đất, trần gian rồi thoạt nhiên bừng thấy ra cả trời thơ đất mộng bồi hồi :
Đầu non cuối biển vọng tiếng nguyệt cầm, rung ngân bất tận một tiếng đàn trăng giữa thiên thu vời vợi… Khiến cho bất ngờ, mồ hôi thấm từng viên đá sỏi ven đồi, thấm qua bàn tay gầy guộc của mẹ hiền vun xới, chở che, đùm bọc, để rồi mọc lên tinh khôi một đóa hoa lòng trong trắng, một đóa hoa tâm thầm lặng tỏa ngát hương trời giữa hoang vắng tịch liêu trên xứ miền cao nguyên ngút ngàn mây trắng miên du, lãng đãng khói sương mù…
Đóa hoa từ tâm, đóa hoa tuệ tâm ấy, một ngày kia đã hóa thân thành Giác Tâm, một thi sĩ bình dị, đơn sơ nhưng vô cùng phiêu nhiên trên tuyệt đỉnh trời thi ca lồng lộng…
Không biết tự bao giờ, dường như là năm 1956, chàng thi sĩ ra đời, đi về xuất hiện giữa tồn sinh, nơi sơn thôn Cỏ May, chốn Trại Mộ, Biển Hồ Trà, thuộc tỉnh Gia Lai huyền mộng này. Lớn lên giữa thượng nguồn núi đèo heo hút, rừng rú man dại, hoang vu, sớm chiều thấp thoáng mờ sương khói phủ. Ru hồn thơ vi vu, vi vút theo suối thác, truông ghềnh đổ ầm xuống buôn làng thượng du, reo vang rộn ràng, trào tuôn trôi cuốn, cuồn cuộn chảy… Chạy nhảy nô đùa với cỏ nội hoa ngàn, thở cùng gió núi, mưa rừng, nắng rậm giữa trời đất man thiên, rỡn bướm vờn hoa, lạnh ngút rờn sơn dã. Cho nên, mạch ngầm thi ca trong lòng chàng thi sĩ chợt bùng vỡ, dâng trào, rào rạt nguồn cảm hứng Mẹ Và Trăng :
Áo lụa mẹ choàng trắng trong như nguyệt bạch, trăng đậu trên vai trên vuông áo ngắn dài. Lóm đóm hoa lóm đóm sao, mẹ trẻ trung như thời con gái, bất chợt con thấy mình thơ dại, thật hồn nhiên như thuở vào đời. Mẹ thân yêu của con của muôn đời mãi mãi, chở che con suốt cuộc tử sinh này.
Một chút mây vẫn còn đang phiêu lãng và chừng như đang hội tụ cùng trăng. Cõi vĩnh hằng mây trăng thinh lặng, rừng thênh thang đêm mênh mang, lặng lẽ ngồi lặng lẽ thở, trầm tư về một thuở đi hoang. Huyên thuyên nhiều chi thêm ngộ nhận, con trở về chợt dứt nói năng.
Theo mẹ đến chốn này để nhìn đời và để nhìn mây. Đời trôi chảy như dòng sông dịch biến, mây hợp tan, tan hợp chưa hề… Con thơ dại vẫn vầng trăng đó, tóc sương pha mây trắng vẫn đi về, trăng tháng chạp sao mà tơ nõn, soi tỏ đêm dài và cội lão mai, trăng sáng quá lòng bình yên lạ, ngẩn ngơ nhìn trời đất mới tinh khôi.
“Ngẩn ngơ nhìn trời đất mới tinh khôi” là cái nhìn sơ tâm, cái thấy hồn nhiên, nguyên vẹn của hài nhi. Khi có cái nhìn ấy thì mọi sự, muôn loài vạn hữu đều trinh tuyền, trong suốt, hiện ngời lên vẻ đẹp vô ngần Chân Thiện Mỹ. Vẻ đẹp thanh tân Chân Thiện Mỹ đó, phải chăng chính là tự tính thanh tịnh mà Lục tổ Huệ Năng đã phát biểu hay thiền sư Huyền Giác chỉ rõ Đương xứ tức chân hoặc như thiền sư Lâm Tế nói là cái Tâm vô sự, cái Bản lai diện mục của chính mình ?
Kinh điển đại thừa đã tuyên bố rõ ràng qua nhiều tên gọi : Như Lai, Diệu Tâm, Phật Tánh, Tánh Không, Bồ Đề, Bát Nhã, Tuệ Giác, Niết Bàn, Chân Như, Chơn Không Diệu Hữu, Tự Do Tự Tại… Tuy nhiều tên gọi khác nhau nhưng cùng một ý chỉ bản tâm thanh thản, an nhiên, giải thoát mọi buộc ràng, phiền não, khổ đau thôi. Cái tâm giải thoát ấy chẳng ở đâu xa mà vốn thường hằng hiện hữu, luôn luôn gần gũi trong từng hơi thở của chúng ta, của tất cả sinh linh đang sống nơi cõi ta bà, mang mang thiên địa giữa càn khôn, vũ trụ tuần hoàn này.
Nếu ai sống được với Diệu Tâm, Tuệ Giác ấy là có ngay cái nhìn tinh khôi, cái thấy mới mẻ, mới lạ và mới lạ, là Kiến tánh thành Phật. Thành Phật là thành tựu cái Diệu Tâm đó, là lý sự viên dung giữa thực tại đang là. Cõi ta bà sẽ hiện bừng ra cảnh giới huy hoàng Tịnh Độ, an lạc Niết Bàn ngay lập tức. Sở dĩ đa số chúng ta không sống được với bản tâm vi diệu ấy là vì chúng ta tự ý đánh mất nó đi, tự mình lơ đễnh, quên đi, tự mình giam nhốt chính mình trong những cặn bã danh lợi, những ngục tù bản ngã ấu trĩ, những đố kỵ nhỏ nhen, u ám, trầm trệ thái quá. Tự mình buông lung, buông thả, chìm đắm trong bóng tối đêm dài sinh tử, hụp lặn giữa đục ngầu tham sân si, trong mộng mị chiêm bao, ảo dị sa đà :
“Dòng sông xưa đôi bờ hoa nở đỏ” là một câu thơ thâm trầm, tâm đắc mà thi sĩ Giác Tâm đã chọn làm đầu đề cho tập thơ sắp xuất bản của mình. Lời bộc bạch hay lời Nguyện Ước khơi vơi nọ, thi sỹ muốn gởi đến cho chư huynh đệ mười phương đang sống lưu linh lạc địa, trên khắp quả địa cầu tròn trịa đang quay lông lốc giữa hư không này.
Hãy tự mình tỉnh thức. Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy quay về quê quán ban sơ, ngồi lại bên bờ xanh mướt thương yêu của dòng sông đời sống nhiệm mầu. Sầu đau, phiền não từ vô lượng kiếp với bao đoạn trường tuế nguyệt liền biến tan, khi gã cùng tử biết dừng gót chân nghiệp chướng, biết quy hồi cố xứ, theo nẻo về sâu thẳm nguồn mạch, long lanh ánh tâm hồn :
Một tiếng gầm sấm sét, một tiếng hú dữ dội, kinh hồn hay một tiếng thơ ngân dài cao vút suốt nhật nguyệt thiên thanh đều phát khởi từ đáy sâu thăm thẳm nội lực tâm hồn thâm hậu. Từ cõi tâm thần diệu đó, nhà thơ Giác Tâm gởi gắm nỗi lòng mình qua Tâm Sự Hàn Sơn Tử:
Vô sở cầu, vô sở trụ, vô sở đắc là bài thơ tuyệt bút của những bậc cao thủ, thượng thừa. Bài thơ Vô được các thiền sư thường viết trên dòng nước nhân sinh, trên ngàn mây trắng thênh thang… Hàn Sơn và Thập Đắc là hai thiền sư có hành tung kỳ bí dị thường, không theo điều lệ tông môn nào cả, trái lại, phá chấp triệt để, thể hiện phong thái tự do, tự tại như cuồng sĩ Tế Điên, Phổ Hóa, Đan Hà, Bùi Giáng... Họ tung hoành ngang dọc, thõng tay vào chợ, vào chốn hỗn độn, náo nhiệt, phồn hoa, đô hội mà vẫn vô nhiễm, thung dung, không bị trói buộc, chẳng mắc dính vào bất cứ hình danh, sắc tướng nào hết. Bồng tênh qua lại giữa chợ đời đảo điên, phức tạp một cách thanh thản, an nhiên.
Thiền là gì ? Có người hỏi như thế. Lục tổ Huệ Năng trả lời: “Bên ngoài lìa tướng là thiền, bên trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm liền loạn, nếu lìa tướng thì tâm chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh, tự định, chỉ vì thấy cảnh, chấp cảnh thành loạn. Còn khi mình thấy tất cả mọi cảnh vật mà tâm chẳng loạn, đó là chơn thiền vậy.” Thiền tông phóng khoáng, mở rộng cánh cửa Tánh Không bát ngát, làm biến mất, xóa nhòa hết mọi biên giới đối đãi như dại khôn, ngu trí, ghét thương, được mất, cao thấp, tâm vật, Phật ma, Chúa quỷ, thánh phàm, động tịnh, đúng sai, phải quấy, hơn thua, tốt xấu, mộng thực, có không, sống chết… Đưa tất cả cùng về thể tánh Nhất Như bình đẳng. Vắng lặng mọi so đo chân giả, hòa rung trên cung bậc Bất Nhị reo ca. Từ trên cung bậc Bất Nhị đó, thiền sư và thi sĩ cùng hòa âm, tương ứng trên bước đi như thị, như nhiên :
Sau một thời gian dài hơn 15 năm, du phương tầm cầu học đạo với những bậc tôn túc, thượng thủ, nhà sư thi sĩ Giác Tâm trở về an trú, trụ trì chùa Bửu Minh. Với tâm hồn nghệ sĩ, tài hoa, thầy dốc hết năng lực, trí tuệ ra trùng tu toàn bộ cảnh thiền môn xuống cấp thành một ngôi đại tự nguy nga, tráng lệ. Chùa có vị trí biệt lập, cách xa làng xóm, nằm trên ngọn đồi giữa những nương rẫy chè xanh thoáng đãng. Xây cổng tam quan năm mái, đặc thù như ngũ uẩn giai không, đúc đại hồng chung, sớm chiều ngân nga, đồng vọng trầm hùng, đánh thức dậy cơn mê ngủ, quằn quại trần ai, trong những đêm khuya dài vắng lặng: “Lắng lòng nghe lắng lòng nghe. Tiếng chuông chánh niệm quay về nhất tâm.”
Ngoài những tác phẩm điêu khắc Đức Phật sơ sinh, Đức Phật ngồi tọa thiền, Đức Phật nằm nhập diệt, tượng Di Lặc, Quán Thế Âm sắp đặt hài hòa, rải rác quanh chùa, còn có một ngọn bảo tháp vươn lên, nổi bật trên nền trời xanh thanh thoát. Toàn bộ kiến trúc chùa là do trái tim đầy tâm huyết của thầy, hướng dẫn thợ và cùng làm với họ, thổi hồn vào tác phẩm. Ngôi bảo tháp vút cao, xòe tỏa ra trên mái chùa như che chở, đùm bọc xóm làng, sơn thôn giữa chốn rừng sâu. Trên đỉnh tháp có thờ Xá lợi Phật ( thỉnh từ Tích Lan ) và Đại tạng kinh. Ngôi chùa có bảo tháp cao nhất Việt Nam này là một tác phẩm tâm đắc, độc đáo mà nhà sư thi sỹ dồn hết thập thành công lực của mình vào mới thực hiện nổi. Đôi khi, trong những chiều hôm nắng quái, chạnh niềm tịch mịch, ngồi ngắm nhìn ngôi bảo tháp tỏa bóng xuống nương chè, thi sỹ lặng thầm hát nhạc Trịnh Công Sơn: “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Làm sao em biết bia đá không đau. Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…” Ngôi chùa xưa đã trải qua bao mùa cuồng phong, bão tố vẫn đứng trầm mặc, uy hùng, cô tịch, lặng lẽ trên nương rẫy chè, thoáng ngát triền đồi quê :
“Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc… sinh tử tức Niết Bàn” Đó là tiếng đàn Bát Nhã, Tâm Kinh mà thi sĩ thường lắng nghe và ca hát nhịp nhàng theo, từ sớm tới chiều trong liêu vắng cô liêu. Nhiều khi trầm mình trong dòng kinh, thi sĩ thích thú chuyển dịch phẩm Phổ Môn, trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bằng một văn phong sinh động, tân kỳ: “Phật bảo: Này Vô Tận Ý ! Tôi vừa nói cho quý vị nghe về sự dạo chơi tự tại của Bồ tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của ngài.” Dạo chơi tự tại, cái thần lực, cái tự do là cách dịch thoát độc đáo, phảng phất khí vị văn chương.
Văn chương, nghệ thuật, thường phiêu diêu như hơi thở, hòa quyện vào cuộc sinh diệt, đến đi của phù sinh huyễn mộng. Bằng phương tiện thi ca, nhà thơ tiễn biệt Hòa thượng Giác Phúc ( trụ trì Tịnh xá Ngọc Phúc, Pleiku ) lên đường trở về cõi miền lung linh Tịnh Độ :
Hay khi nghe tin mẫu thân Hòa thượng Thiện Nhơn ( trụ trì Tổ đình Thiên Đức, Bình Định ) qua đời, nhà thơ xúc động, thốt lên tiếng lòng ngậm ngùi, thay lời của Hòa thượng, trước cuộc vĩnh ly bà mẹ hiền dấu yêu :
“Nguyện mẹ tiêu dao cõi vô cùng” là một mong ước cho mẹ được vãng sanh, tiêu dao vào miền bất sinh bất diệt, thần phách siêu thăng chốn Tịnh thổ Bồ Đề. Thế nên, văn chương, văn nghệ là thể điệu nghệ thuật siêu xuất, là con đường phong quang sáng tạo, có thể vượt qua địa ngục, thiên đường, vượt qua tất cả mọi giả chân, mê ngộ, mộng thực… để thong dong, tự tại giữa có không, sống chết… Trên con đường sáng tạo vô vi, thi sĩ Giác Tâm cảm nhận ngay trong cơn tử sinh trường mộng này vốn hiện diện đầy đủ cảnh giới Niết Bàn, mặc dù còn thấp thoáng nhưng cũng thấy ra một cõi đi về. Thành thử, cứ như vầy, như thế, tùy duyên bất biến giữa dòng đời vạn biến, sớm biết tìm đường trở về quê quán an lạc dưới ánh đạo vàng :
Đã về đã tới như thiền sư Nhất Hạnh, nhà thơ Giác Tâm mỉm nụ cười trầm tịnh, lắng nghe “Suối thương yêu chảy mênh mang đất trời” thênh thang chảy qua cả ba nghìn thế giới. Chảy về chùa núi Bửu Minh tịch mịch, thanh vắng giữa đồi cao bạt ngàn cà phê, nương rẫy chè xanh. Thi sỹ tùy duyên chuyển hóa, cưu mang, giúp đỡ, hướng dẫn đồng bào phật tử hữu duyên biết buông bỏ tham lam, sân hận, si mê, để vơi đi bớt mọi lụy phiền, điên đảo, khổ đau, sầu thảm, âm u…
Lãng đãng phong trần, giữa muôn trùng cuộc lữ, tôi làm chuyến đi xuyên Việt, khởi từ bờ biển Kiên Giang đến nay cũng hơn 4 tháng rồi mới tới vùng cao nguyên, phố núi Pleiku này. Một nếp duyên lành hạnh ngộ, tôi dừng gót giang hồ, lưu trú lại chùa Bửu Minh gần cả tuần lễ nay. Sớm chiều vào ra nhàn nhã, vô sự, ngắm huyền ảo khói sương Biển Hồ, trông mây ngàn trôi bàng bạc trên dãy núi Tiên Sơn, chập chờn bao hoa nắng phiêu bay, bảng lảng, vang vọng bóng sơn khê, nghi ngút bồng bềnh trên miền thiên thanh vĩnh thúy…
Gặp du sĩ như gặp người đồng điệu, thầy trải lòng ra hòa khúc tri âm, tri kỷ. Rót cạn mấy bình trà bên thềm trăng khuya mà vẫn chưa hết ý, cạn lời hàn huyên, tâm sự. Một chiều, thầy đưa xem bản thảo tập thơ Dòng Sông Xưa Đôi Bờ Hoa Nở Đỏ, hơn mấy trăm bài thơ, vừa ngậm ngùi vừa tiêu sái, vừa nỗi niềm vừa xuất cốt, phiêu diêu. Tôi liền đọc một mạch như đọc lại chính mình và hân hoan, sảng khoái, cảm đề bài thơ, riêng tặng nhà sư, thi sĩ Giác Tâm, trước khi chia tay, tạm biệt, tiếp tục lên đường, viễn phương hành theo khói trời mênh mông bay về cùng tuyệt :
( Phố núi Pleiku 20/04/2016 )
Chữ nghiêng : Thơ Giác Tâm. Trích trong tập Dòng Sông Xưa Đôi Bờ Hoa Nở Đỏ, sắp xuất bản.
*Con Về Còn Trọn Niềm Tin. Thích Giác Tâm. Tập tản văn, Phương Đông xuất bản, 2012
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sống Đẹp
Ám áp bên Thầy ngày Nhà giáo Việt Nam
Văn hóa 16:57 20/11/2018Sáng ngày 20/11/2018 (14/10/Mậu Tuất), phật tử đạo tràng BQT chùa Đức Hòa và Thiên Bửu đã vân tập về Tổ đình Thiên Bửu (thôn Bình Thành, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa) để chúc mừng Hòa thượng viện chủ nhân ngày Nhà giáo Việt Nam.
Phật
Văn hóa 12:28 14/11/2018Phật ngồi trên sườn núi,/Nhìn xuống đường bụi mù,/Phật đang nghĩ gì thế nhỉ!/Thương con người ngược xuôi?
Tọa đàm về tác giả bài thơ bất hủ “Em đi chùa Hương”
Văn hóa 12:18 14/11/2018
Sáng ngày 9/11/2018, Nhà xuất bản Phụ nữ và Khoa Viết văn – Báo chí, trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức tọa đàm “Đọc lại Nguyễn Nhược Pháp” về sự nghiệp văn chương, nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày mất của nhà thơ tài hoa bạc mệnh.
An lành
Văn hóa 10:12 13/11/2018Xin cầu thấu rõ chân diệu pháp/Hiện tượng vạn vật luôn biến đổi/Muôn sự hết thảy nương nhau thành/Để tâm tịch lặng an lành nhất/An lành như thế thật an lành!
Xem thêm