Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ năm, 04/08/2016, 15:00 PM

Góc nhìn Phật giáo về chế độ đa thê

Hôn nhân là một hiện tượng của loài người thường được phổ biến, từ những nền văn minh cổ đại, bất kể địa lý, tôn giáo, chủng tộc và giai cấp xã hội. Hôn nhân trong tiếng Latinh là marītātus, có nghĩa là “Kết hôn, Cưới, Gả”. 

Ngày nay "hôn nhân" được định nghĩa là:

1. Một sự thỏa thuận chính thức, thường được hợp pháp hóa bởi thực thi pháp luật, giữa một người nam với người nữ để giúp họ trở nên cặp vợ chồng.
 
2. Nghi lễ Tân hôn (đàn trai) - Vu quy (đàn gái) để kết hôn đôi tân lang, tân nương nên vợ chồng. Hôn nhân là muốn nói ở bài viết này, và không phải là nghĩa thứ hai.

Có nhiều cuộc hôn nhân chịu ảnh hưởng bởi các quan điểm về tôn giáo, xã hội và triết học. Nói chung, có ba loại hôn nhân, cụ thể là chế độ đa thê, hôn nhân một vợ một chồng và kết hôn nhóm.

- Hôn nhân một vợ một chồng là phong tục kết hôn chỉ với một người sống thủy chung một lần. Đây là việc phổ biến trong xã hội và tất nhiên loại kết hôn này có thể nhìn thấy ở khắp mọi nơi. Nhưng việc kết hôn nhóm là rất hiếm được nhìn thấy.

- Kết hôn nhóm gồm nhiều hơn một thành viên của mỗi quan hệ tình ái. Họ sống với nhau bằng cách chia sẻ chung vợ chung chồng, và có trách nhiệm chung trong việc chăm sóc con cái, cũng như gìn giữ tài sản chung.

Tuy nhiên, hai loại kết hôn này không phải là mục đích của đề tài này. Mục đích chính của đề tài là để thảo luận và khảo sát loại hôn nhân thứ ba: Chế độ đa thê.

- Các chế độ Đa thê được định nghĩa theo hai cách: 

1. Tập tục có nhiều hơn một vợ cùng một thời điểm. 

2. Một cuộc hôn nhân nơi đấy nam hay nữ có nhiều hơn một vợ một chồng. 

Định nghĩa thứ hai dẫn đến các điều khoản trong hôn nhân khác được gọi là "đa thê" và "đa phu" (nhiều vợ, nhiều chồng). Đa thê có thể tìm thấy nhiều nơi trên khắp thời gian cho dù thời cổ đại hay thời hiện đại, nhưng đa phu là khá hiếm, và khó có thể tìm thấy.  Có thể do vì các vấn đề giới tính mà ở xã hội nhiều phụ nữ có ít sự tự do, bao gồm tự do chọn lựa và để có đa phu.

Theo lịch sử ký lục liên quan, chế độ đa phu đã được thực hiện ở Sparta, Hy Lạp cổ đại; và trong xã hội Hindu, như được mô tả trong sử thi Mahābhārata (महाभारत-một tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại), ở đó Draupadi (द्रौपदी-là một trong những nhân vật nữ quan trọng nhất trong các sử thi Hindu) đã có năm chồng cùng một lúc. Bất chấp hai định nghĩa đa thê được đề cập ở trên, sự phân tích này, định nghĩa đa thê là một sự kết hôn mà ở đó một người chồng có nhiều hơn một vợ. Định nghĩa này được dựa trên nghĩa từ nguyên xuất phát từ tiếng Pháp cổ polygamic và từ văn viết Latin (được sử dụng từ thế kỷ 3-7) là polygamia mà nó có nghĩa là “có nhiều vợ”.

Mặc dù chế độ đa thê được thực hiện bởi nhiều người dân Indonesia, rất khó có thể đưa ra bằng chứng thống kê để biết có bao nhiêu người đàn ông Indonesia thực hiện chế độ đa thê. Bởi nhiều cuộc hôn nhân thường không đăng ký kết hôn, bất hợp pháp hóa pháp luật. Tương tự như vậy, không rõ là có bao nhiêu nam cư sĩ phật tử Indonesia đang thực hiện chế độ đa thê. Mặc dù không rõ ràng về tỷ lệ phần trăm, việc thực hành chế độ đa thê diễn ra trong giới cư sĩ phật tử tại gia và sự thực hành này mang lại sự bất lợi cho nữ cư sĩ phật tử, chẳng hạn như từ sự bất hòa gây nên bạo lực gia đình và bỏ bê lợi ích chung của gia đình. Trước khi thảo luận thêm vấn đề này, chúng ta nên thảo luận về thực hành chế độ đa thê.

Thực hành chế độ Đa thê ở Indonesia: Từ cổ đại tới ngày nay. 
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Chế độ đa thê không phải là bản chất con người. Nó được thực hiện bởi nhiều lý do, ví dụ như quan điểm xã hội xem phụ nữ như là nguồn sinh sản, lao động và tài sản. Có lẽ, bởi vì lý do này, chế độ đa thê đã được thực hành thời cổ đại trong nhiều xã hội trong đó có Indonesia. Những hoàng gia quý tộc của các Vương quốc Hindu, Phật giáo và Hồi giáo ở Indonesia cũng không ngoại lệ. Việc thực hành chế độ đa thê có thể truy nguyên chỉ là việc thực hành của Hoàng gia quý tộc qua câu chuyện đời sống của họ được ghi lại trong sử sách. Chế độ đa thê của những Hoàng gia quý tộc thường những lý do chính trị, ví dụ như vì lợi ích chung của sự liên kết sức mạnh của các Vương quốc. Điển hình, để liên kết sức mạnh của Vương quốc Kalinga (ngày nay là Odisha) và vương quốc Galuh (một vương quốc của Sunda phía tây đảo Java, Indonesia), đã có mối nhân duyên tình sử giữa giữa Hoàng thái tử Mandiminyak của Galuh và công chúa Parwati của Kalingga vào thế kỷ 6 Tây lịch. Như sử sách ghi chép, Hoàng thái tử Mandiminyak không những kết hôn với Công chúa Parwati lại còn mối tơ duyên với người phụ nữ khác tên là Pohaci Rahabu.

Chế độ đa thê vì sự lợi chung bởi sự tăng cường các mối quan hệ song phương chính trị giữa hai quốcgia đã được minh chứng bằng chế độ đa thê của của Brawijaya, vua của vương quốc Majapahit trong suốt thế kỷ 14 (TL). Bên cạnh những người vợ địa phương khác, ông còn có một người vợ từ vương quốc Champa có tên là Putri Dwarawati. Putri Dwarawati là món quà mà tướng Yan Lu của Triều Ming của vương quốc Campa hiến tặng để củng cố mối liên hệ giữa Majapahit và Champa.

Khoảng thế kỷ 15, khi Hồi giáo trở thành tôn giáo nổi bật trong cả nước Indonesia, chế độ đa thê cũng được các Vương quốc Hồi giáo thực hiện. Vị vua nổi tiếng  Sultan Agung (trị vì 1613 - 1645 ) của Vương quốc Hồi giáo Mataram có hai Hoàng hậu chính thức. Một là công chúa Ratu Kulon, con gái của vị thủ lĩnh Cirebon, và công chúa Ratu Wetan, con gái của vị thủ lĩnh Batang. Việc kết hôn của vị Quốc vương với nàng hai Công chúa là để củng cố niềm tin yêu của dân chúng hai vùng Cirebon và Batang đối với vương quốc. Hoàng hậu Ratu Kulon đã hạ sinh một Hoàng tử đặt tên là Pangeran Alit; và Hoàng hậu Ratu Wetan cũng đã hạ sinh một Hoàng tử và đặt tên Raden Mas Sayidin. Sau khi Quốc vương Sultan Agung băng hà, Hoàng tử Raden Mas Sayidin đã giết người anh cùng cha khác mẹ là Hoàng tử Pangeran Alit, và tự phong mình là vua của Mataram Islam với tước hiệu Amangkurat I.

Vị Quốc vương Amangkurat I tiếp tục thực hiện chế độ đa thê nhưng chỉ vì mục đích thỏa mãn dục lạc. Ví dụ, ông đã giết chết nghệ sĩ Dalang Panjang Mas, người làm trò múa rối lâu năm trong cung điện và để chiếm đoạt người vợ của anh ta tên là Ratu Mas Malang. Quốc vương Amangkurat I vì đam mê sắc dục mà đánh nhau với hoàng tử Raden Rahmat, con trai của Ông, bởi hoàng tử Raden Rahmat đã say đắm nàng Rara Oyi mà Quốc vương Amangkurat I xem nàng này như vợ yêu quý của mình. Cuối cùng, Quốc vương Amangkurat I đã ban lệnh cho hoàng tử Raden Rahmat, con trai của ông giết chết nàng Rara Oyi, để không ai trong họ có thể nên duyên phu thê với cô này.

Từ những thực tế nêu trên, có thể thấy rằng chế độ đa thê đã tồn tại ở Indonesia từ thiên niên kỷ đầu tiên. Thực sư, không chỉ những hoàng gia quý tộc mới thực hiện chế độ đa thê ngay cả thường dân cũng thực hiện chế độ đa thê. Chế độ đa thê đã kế tục hết thế hệ này sang thế hệ khác; hơn nữa, nó nhận được sự bảo bọc truyền ý thức hệ từ nhiều triết học địa phương, áp đặt phụ nữ vào một vị trí thấp hơn đàn ông. Ở Indonesia, đặc biệt là người Java, họ tin vào quan niệm rằng phụ nữ chỉ là người trợ giúp cho  người đàn ông, bởi đàn ông đứng vị trí lãnh đạo gia đình. Do đó, đứng về mặt tinh thần cũng như phương diện tài chính của cải, phụ nữ luôn quan niệm phụ thuộc vào đàn ông. Thái độ độc lập của phụ nữ đưa đến việc chấp nhận những gì mà chồng của họ làm, kể cả việc đa thê. Bên cạnh đó, luật hôn nhân do Chính phủ ban hành, cho phép việc thực hiện chế độ đa thê theo một số trường hợp cũng đã trở thành yếu tố khác cho việc tiếp tục chế độ đa thê. 

Luật Hôn nhân và Gia đình đã được chính phủ Indonesia quy định ở Đạo luật 1/1974. Nguyên tắc của hôn nhân là mối quan hệ tâm, sinh lý giữa một người phụ nữ và người nam như là phu thê (chồng vợ), với mục đích hình thành một gia đình hòa hợp và hạnh phúc. Dựa trên điều luật này, rõ ràng là các nguyên tắc chung về Hôn nhân theo quy định của Chính phủ là một vợ một chồng sống chung thủy, và đó là những gì được đề cập cột số 3 đoạn một. Tuy nhiên, có khả năng cho một người đàn ông có nhiều vợ bởi phân đoạn tiếp theo của cột 3 này nói rằng: “Người đàn ông được phép kết hôn nhiều hơn phụ nữ nếu được sự thỏa hiệp giữa các bên liên quan”. Cột tiếp theo nói rằng kết hôn với nhiều hơn một phụ nữ là được phép nếu người vợ không thể thực hiện được bổn phận của mình (về phương diện tâm, sinh lý), bị mắc những chứng bệnh không không thể chữa trị hoặc không thể mang thai. Do đó, nếu một người vợ đang trong ba điều kiện được nêu trên, một người chồng có thể được kết hôn với một người phụ nữ khác như người vợ mới của mình. 

Với những quy định trên, một người đàn ông đã lập gia đình, nếu được sự đồng ý của vợ và ông chỉ ra được rằng ông có thể đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý đến nhiều hơn một người vợ, ông sẽ được phép thực hiện chế độ đa thê. Luật Hôn nhân cũng đề cập rằng nếu trường hợp một người chồng mất liên lạc với vợ sau hai năm, ông ta có thể kết hôn với người phụ nữ khác mà không cần sự thỏa thuận từ người vợ vắng mặt.Tuy nhiên, trong quy định kết hôn, không đề cập rõ ràng về giới hạn được phép có bao nhiêu vợ. Do sự ảnh hưởng của giáo lý Hồi giáo, người ta nghĩ rằng một người đàn ông có thể  lấy bốn vợ cùng một lúc.

Những gì có thể nhìn thấy từ luật định trên là một sự thiên vị về giới tính. Theo các quy tắc, ở phụ nữ cuộc sống hôn nhân chỉ được xem là người sinh đẻ con cái, và do đó, nếu họ không hoàn thành bổn phận này, họ phải chấp nhận đa thê. Vì lý do này, một số phụ nữ Indonesia và những nhà hoạt động nhân quyền đang yêu cầu chính phủ sửa đổi luật hôn nhân bằng cách xóa bỏ việc cho phép thực hiện chế độ đa thê chẳng kể lý do có thể là gì. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng quan điểm Hồi giáo là tôn giáo chiếm đa số, chính phủ chưa thực hiện đòi hỏi này bởi Hồi giáo cho hưởng chế độ đa thê.

Mặc dù giáo lý Hồi giáo cho phép tín đồ kết hôn nhiều hơn một người vợ, nhiều người Hồi giáo, như những công dân quan trọng và giáo lý của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự cho phép thực hiện chế độ đa thê, cũng đang tranh luận về điều này. Dựa trên giáo lý được trình bày trong Surah An-Nisa (Những câu hỏi liên quan đến đời sống gia đình, bao gồm cả hôn nhân và thừa kế), một số người Hồi giáo cho rằng có tối đa bốn vợ với cam kết đối xử công bằng với tất cả các bà vợ, về tâm sinh lý, là được phép. Những người ủng hộ chế độ đa thê nói rằng đó là cách tốt nhất để làm giảm tình trạng ngoại tình, và để giúp cho phụ nữ nhận được cuộc sống tốt hơn. Họ cũng nói rằng về mặt thống kê, phụ nữ nhiều hơn nam giới và rõ ràng họ sẽ gặp khó khăn trong tìm việc chồng. 

Nhiệt tình với chế độ đa thê, một người đàn ông đa thê tên là Puspo Wardoyo, chủ ở hữu nhà hàng “Wong Solo” ở Trung Java đang xúc tiến “giải thưởng Đa thê”. Giải thưởng này được trao cho một người đàn ông thực hiện chế độ đa thê thành công. Tuy nhiên, sau khi đọc Hadiths (một bài phúc trình ‘report’), một số người Hồi giáo có quan điểm khác nhau, nói rằng không thể thực hành chế độ Đa thê. Trong Hadiths, kể câu chuyện rằng khi Ali bin Thalib (599- 661), người đã kết hôn với con gái út của nhà tiên tri Muhamad (570-632) là nàng Fatimah (605- 632), xin phép nhà tiên tri được kết hôn với một phụ nữ khác và nhà tiên tri không cho phép làm điều đó bởi vì nó sẽ làm tổn hại đến nàng Fatimah. Điều này là bằng chứng rằng không nên thực hiện đa thê. Giải thích tại sao nhà tiên tri Muhamad có chín vợ, nhóm này nói rằng nhà tiên tri thực hiện chế độ đa thê bởi vì tình huống xã hội tại thời điểm đó, khi có nhiều góa phụ cần sự giúp đỡ của ngài. Do đó, việc có nhiều vợ của ngài là vì tình thương đối với các góa phụ. Phản bác chế độ đa thê, nhóm này kết luận rằng chế độ đa thê gây áp lực tâm lý lên nữ giới. Mặc dù một người đàn ông có những hiểu biết tôn giáo sâu rộng và có thu nhập kinh tế tốt, cuối cùng vẫn có những vấn đề với các bà vợ vì những lý do tâm lý. A.A. Gymnastiar (sinh năm 1962, một nhà thuyết giáo Hồi giáo nổi tiếng Indonesia đã phải ly dị vợ cả của mình là một ví dụ thực tế về điều này.

Hôn nhân và Đa thê: Quan điểm Phật giáo

Về cuộc sống hôn nhân, là những công dân Indonesia, giới Phật giáo đồ cùng tuân theo luật pháp hôn nhân do chính phủ quy định. Nam cư sĩ phật tử có thể kết hôn nhiều hơn một vợ và do đó, nữ cư sĩ phật tử luôn ở trong tình trạng có thể chịu cảnh chồng của chung bất cứ lúc nào. Thông thường, những nam cư sĩ phật tử thực hành chế độ đa thê được kết hôn với người vợ thứ hai dựa trên phong tục Hồi giáo. Vì vậy, những gì họ đã làm là thay đổi tình trạng tôn giáo của họ ở trên thẻ căn cước, và sau đó tiến hành các cuộc hôn nhân lần hai, hoặc lần ba theo thể thức Hồi giáo. Đó là vì trong Hồi giáo có “nikah siri” (cách kết hôn không chính thức của người Hồi giáo), một sự kết hôn hợp pháp theo luật Hồi giáo mà không cần phải đăng ký hôn thú với chính quyền. Loại kết hôn này chỉ cần một số người chứng minh, sự cho phép của chính quyền làng xã địa phương, sự chấp thuận của cha mẹ và sự cho phép của các vị chức sắc Hồi giáo. Chính quyền luôn im lặng nhìn loại kết hôn này khi nó được cho phép tôn giáo đa số. Mặc dù, nikah siri đã gây tranh cãi gần đây bởi vì con cái của loại hôn nhân này sẽ khó được giấy khai sinh và những bà vợ không đảm bảo về lợi ích kinh tế của họ.

Tam tạng giáo điển, Luật tạng không có những quy định cụ thể ngăn cấm đa thê. Và, như có thể nhìn thấy từ kinh điển Phật giáo, có nhiều đệ tử đức Phật thực hiện chế độ đa thê, chẳng hạn như các vị Anh minh hoàng đế Pasenadi (Ba Tư nặc), Vương quốc Kosala (Kiều Tát la) và vua Bimbisāra (Bình Sa vương- Tần bà sa la), Vương quốc Magadha (Ma kiệt đà). Hoàng hậu của vua Bimbisāra là Kosaladevī (Vi Đề hy) và các ái phi của vua Bimbisāra là các bà Khemā, kỷ nữ Padumavatī và Ambapāli.

Dựa vào những sự việc này, câu hỏi được đặt ra là “Đức Phật đã đồng ý việc thực hành chế độ đa thê? Nếu đức Phật không đồng ý, tại sao Ngài không dạy họ sống đời sống chung thủy một vợ một chồng?”

Những câu hỏi này phải được trả lời từ bối cảnh lịch sử xã hội. Trước hết nên lưu ý rằng, những vị vua này đã có nhiều vợ trước khi gặp đức Phật. Vua Bimbisāra, người kém đức Phật năm tuổi, hẳn đã kết hôn trước khi Thái tử Sĩ Đạt Ta đạt giác ngộ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Do đó, đức Phật không thể bảo họ một cách đột ngột rằng có nhiều vợ là không tốt và buộc họ phải ly dị các bà Ái, thứ phi chỉ sống chung thủy với Hoàng hậu Vi Đề Hy. Thứ hai, phải ghi nhớ rằng Phật giáo xem việc Hôn nhân là chuyện thế tục; do đó hôn nhân không quy định một cách rõ ràng trong Tam tạng giáo điển. Không giống như Hồi giáo và các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham dạy rằng hôn nhân là bổn phận, theo quan điểm Phật giáo, hôn nhân là một chọn lựa cá nhân. Hôn nhân không phải bị cấm nhưng cũng không khuyến khích. Cư sĩ phật tử tại gia có quyền tự do để lựa chọn là nên kết hôn hay không bởi vì không kết hôn cũng không phải là một tội lỗi.

Bản chất thực sự của hôn nhân từ quan điểm Phật giáo? Kinh Trường Bộ (sa. dīrghāgama, pi. dīgha-nikāya) nêu lên một vài gợi ý cho vấn đề này. Những gì có thể nhìn thấy từ bản kinh này rằng; Hôn nhân bị tác động mạnh bởi dục vọng. Tuy nhiên, không có nghĩa rằng Phật giáo hoàn toàn xem hôn nhân như việc hợp pháp hóa mối quan hệ vợ chồng.

Trong Kinh Trung Bộ (Mahāvacchagotta Sutta), đức Phật dạy rằng người cư sĩ, phật tử tại gia cũng có thể chứng đạt niết bàn. Đây là nguyên tắc quan trọng nên được hiểu sự giác ngộ không chỉ để dành riêng cho giới xuất gia hàng tăng, ni mà cư sĩ, phật tử tại gia cũng có thể đạt được. Như có thể chứng kiến trong các bản kinh Phật, có nhiều vị cư sĩ, phật tử tại gia đã chứng đắc quả vị như Anāgāmī Ugga và Anāgāmī Matthaka Alavaka. Visākhā và Aṇathapiṇḍika, hai vị đại thí chủ của đức Phật, đã chứng được Dự lưu là một ví dụ khác.

Cư sĩ phật tử tại gia đạt được sự thanh tịnh bằng cách nào? Đó là bằng cách cân bằng việc phát triển đời sống thế tục và đời sống tâm linh. Trong cuộc sống hằng ngày của cư sĩ, phật tử tại gia là việc thực hành Bát Chánh đạo, tức giữ gìn giới pháp đã thọ, phát triển Định tâm và Trí tuệ. Giới, Định, Tuệ được ứng dụng hằng ngày. Để bắt đầu tu tập trì Giới, đức Phật khuyên cư sĩ, phật tử tại gia thụ trì Ngũ giới hoặc Bát Quan trai giới, Thập thiện giới, và tập ăn chay kỳ hoặc chay trường. Vào các ngày Trai, cư sĩ phật tử tại gia được khuyên là nên thực hành đời sống “Tịnh hạnh”. Nếu trong trường hợp người ta thấy khó khăn trong việc thực hành đời sống “Tịnh hạnh”, họ không nên tà dâm (quan hệ với người ngoài hôn thú). Ý nghĩa của việc thực hành đời sống “Tịnh hạnh” là gì? Mục đích của của việc tu tập này là để rèn luyện người cư sĩ phật tử tại gia giảm bớt đắm say nhục dục, là một trong năm điều chướng ngại. Bởi sự hiện diện của nhục dục, định tâm không đạt và Tuệ cũng hôn ám. Do đó, người ta bị cuốn vào trong vòng luân hồi và rời xa niết bàn. Dựa trên giáo lý này, những gì có thể tóm tắt là đời sống theo chế độ đa thê sẽ có nhiều rủi ro và chướng ngại trong việc tu tập đời sống “Tịnh hạnh” và giảm thiểu sự chấp thủ vào những thú vui nhục dục. Không chỉ gia tăng sự giam hãm trong gông cùm nhục dục, chế độ đa thê cũng tạo thêm sự ràng buộc gia đình, điều tạo nên chướng ngại cho việc thực hành Thiền định. Minh họa rõ nhất là sự giải thoát trong kinh Ái Sanh (Piyajātika Sutta) mà ở đó những người thân yêu trong gia đình là đầu mối của lo âu và sẽ mang đến sự thất vọng và ta thán nếu sự chia cách xảy ra. Do đó, có thể nói rằng đa thê tạo khả năng thêm cho việc kéo dài đời sống luân hồi.

Thấy các sự việc nêu trên, nữ cư sĩ phật tử nên giải quyết vấn đề đa thê như thế nào trong việc duy trì đời sống gia đình của mình? Trước hết và quan trọng nhất, phụ nữ phải tự trao cho mình khả năng quản lý gia đình như có thể nhìn thấy trong kinh Thiện Sinh (Sigalovāda Sutta). Thứ nữa, là bằng việc xây dựng sự truyền thông tốt với người chồng để cả hai có niềm tin (saddha), có đạo đức (sīla), sự rộng lượng (cāga) và trí tuệ (paññā). Do đó, phụ nữ như là phần không thể thiếu của gia đình nên mang môi trường tôn giáo đến với gia đình để làm cho gia đình gần gũi với Pháp (dhamma); bằng việc khuyến khích tất cả các thành viên gia đình thực hành giới, đào luyện tâm để phát triển trí tuệ. Thánh nữ Visākhā (Nữ đại thí chủ) là tấm gương tốt nhất về người nữ phật tử tại gia đã thành công trong việc đưa gia đình mình đến với con đường Phật Pháp. Đó là tại sao, không thấy nhắc đến trong kinh điển việc chồng của bà là Paññāvadhana thực hiện chế độ đa thê. Bằng việc thấu hiểu Phật Pháp rõ ràng, một gia đình sẽ có hạnh phúc thật sự khi chồng và vợ không nghĩ đến việc kết hôn với người đàn ông hay phụ nữ khác, và biết cách hỗ trợ lẫn nhau để thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Tác giả: Tiến sĩ Kustiani Kalis Sambikala, Indonesia

Vân Tuyền (dịch từ nguồn: Undv)
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Cùng Phatgiao.org.vn lan toả Đạo Pháp.

Ý kiến của bạn

TIN LIÊN QUAN

Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng

Nghiên cứu 15:55 17/04/2024

Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.

Phẩm tính quan trọng của một người học trò từ trường hợp Tôn giả Angulimala

Nghiên cứu 10:10 05/04/2024

Angulimala là một người cực ác trong xã hội khiến ai ai cũng khiếp sợ với danh xưng kẻ sát nhân, chỉ duy nhất tình thương của Phật pháp mới khiến tên cướp quay đầu sám hối, từ một kẻ đại ác trở thành Sa môn Thích tử.

Đạo đức của Phật giáo với đạo làm người

Nghiên cứu 18:00 02/04/2024

Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, cũng mang trong nó những giá trị tư tưởng, như là sự phản ánh khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ của chính loài người, song đặc biệt hơn ở chỗ chú trọng mục tiêu giải thoát khỏi khổ.

A lại da thức và Mạc na thức

Nghiên cứu 09:00 16/03/2024

Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,) được xem là người giữ kho (librarian) và cái kho (library) tích trữ tạo thành nghiệp lực.

Xem thêm