Kinh Lăng Già thực giải
Vị trí tầm quan trọng của kinh Lăng già trong hệ thống kinh điển Đại thừa Phật giáo nói chung trong Thiền tông nói riêng có thể thấy được qua sự đúc kết của các bậc đại sư tiến bối: “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già".
Tâm là nội dung cũng là mục đích của các bộ kinh Đại thừa, trong đó có kinh Lăng già.
Vua Lý Thái Tông đã ví đạo hạnh trí tuệ của thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi như ánh sáng trăng Lăng già.
Trăng Lăng Già vằng vặc,
Sen Bát nhã ngát hương
(Hạo hạo Lăng già nguyệt
Phân phân Bát nhã liên)
Kinh Lăng già nói đến cảnh giới thánh trí cao vời, kinh nghiệm thực chứng thâm huyền vi diệu của nội tâm, vượt quá mọi giới hạn của Thanh văn, La hán, Duyên giác, bất khả tư nghì, siêu việt ngôn ngữ. Đương nhiên ở cảnh giới chứng ngộ tự nội, ngôn ngữ đạo đoạn, vốn không phải là phương tiện hữu hiệu nhất, và không nhất thiết phải sử dụng đến ngôn ngữ mới có thể truyền đạt được chân lý giác ngộ đích thực.
Ngón tay chỉ mặt trăng: Thông điệp kinh Lăng Già

Kinh Lăng Già là khai thị cho chúng sanh, con người trực nhận chân tâm, Như Lai tạng xuyên qua một trăm lẻ tám câu thưa của Bồ tát Đại Huệ hỏi Phật, giảng giải rõ cách tu tập thể nhập chân tâm như thế nào để chuyển tám thức thành tứ trí đạt được giác ngộ Niết bàn, vĩnh thoát khỏi phiền não khổ đau trong sáu nẻo luân hồi. Tất cả chư Phật đều nói về tâm (Nhất thiết Phật ngữ tâm) là câu có ý nghĩa quan trọng đối với kinh Đại thừa nói chung, kinh Lăng già nói riêng.
Có thể nói kinh Lăng già là một bộ kinh nói rành rẽ về tâm thức, Như Lai tạng, những chuyển biến của tâm thức, cách thức tu chứng thánh quả giải thoát, chuyển thức thành trí, nội dung uyên áo phong phú sâu sắc, có vị thế quan trọng trong hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Tư tưởng cốt lỗi của kinh là cơ sở nền tảng của Tâm lý học Phật giáo. Các chức năng và sự vận hành của tâm thức, phương pháp tu tập cụ thể để chuyển thức thành trí giải thoát giác ngộ
Tu tập đúng pháp thể nhập nhập vào thế giới Lăng già mới không bị những cơn lốc sóng gió mạnh mẽ không gì ngăn cản nổi của tâm thức làm cho điên đả khốn cùng. Không phải hành giả nào cũng bước những bước chân vững chãi vào thế giới Lăng già, dù trăng Lăng già chiếu soi khắp mọi nơi, mọi tâm thức của chúng sanh, không phân biệt nhưng quan trọng ai là người đủ can đảm dũng khí tiếp nhận thực hành.
Thế giới hiện thực là sự biểu hiện của chính tâm thức mình, khi thông tỏ tâm thức chính mình là thông tỏ thực tướng của thế giới, của tâm thức, là đã đi đúng hướng, không sai lạc pháp, bằng tuệ giác thanh tịnh nhìn mọi sự vật ở thế gian đều thanh tịnh như nó đang là. Thế nên mọi khổ đau trên cuộc đời này đều do hiểu biết nhận thức sai lầm phát sinh, cũng do tuệ giác như thật không bị thức che mờ mà biến mất.
Thiền sư Hải Lượng nói: Kinh Lăng già giảng về 8 thức (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, mạt na và A lại đã thức), chỉ có ý thức là đến được Niết bàn. Lời này thật chí lý vì mọi sự tu tập bất đầu từ ý thức.
Trên lộ trình tu tập theo Lăng già đi đến giác ngộ giải thoát, dù tu như thế nào đi nữa cũng không ngoài Như Lai tạng/ tâm thức này (gọi là A lại da / Như Lai tạng) và cũng chứng ngộ chính tâm thức này, tức chuyển hoá các chủng tử A lại da ô nhiễm thành thanh tịnh hoàn toàn. Đó là cái thấy biết chân lý trực giác thanh tịnh bình đẳng.
Tất cả chư Phật xưa nay đều nói tâm ( Nhất thiết Phật ngữ tâm).
Chuyển bát thức thành tứ trí theo Lăng Già còn gọi là đốn ngộ, là chứng nhập trong chân lý thực tính vạn pháp.
Bát thức gồm: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và A lại da thức.
Tu tập Lăng già là chuyển
5 thức trước thành Thành sở tác trí
Chuyển ý thức thành Diệu quan sát trí
Chuyển Mạt na thức thành Bình đẳng tánh trí
Và cuối cùng là chuyến A lại da thức thành Đại viên cảnh trí.
Giác ngộ không phải chỉ là một trạng thái yên tĩnh, không phải là một sự thanh thản mà là một kinh nghiệm tu tập nội tâm không bị các thức che mờ. Giác ngộ chứng đắc cùng tột của người tu hành không phải là học rộng biết nhiều mà chính thành tựu được trí tuệ giải thoát ở nội tâm mà Lăng Già gọi là sự tự chứng thánh trí giác ngộ.
Nói đơn giản học tu theo kinh Lăng già giúp chúng ta hiểu biết tường tận chi tiết về tâm thức của chính mình; biết rõ sự vận hành vi tế linh diệu của tâm thức; biết được thực tướng của tâm thức và cách điều phục chuyển hoá tám thức thành tứ trí vượt thoát mọi nỗi khổ niềm đau bất tận trong sáu nẻo luân hồi.
Đại viên cảnh trí như ánh trăng tuệ giác Lăng già mát diệu chiếu soi khắp chốn lợi ích hữu tình vô cùng vô tận.
Kinh Lăng già
Phật ngữ tâm
Hiểu rõ chính mình
Chuyển thức thành trí
Như Lai tạng.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn


Ý nghĩa của ngày vía đức Bồ tát Quán Thế Âm
Kiến thức
Hằng năm, Phật tử thường làm lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày: 19/2, 19/6 và 19/9 theo âm lịch. Đức Quán Thế Âm Bồ tát còn được gọi là Bồ tát Quán Tự Tại xuất hiện khá nhiều trong các kinh điển của Phật giáo Đại thừa như trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa…

Lời dạy sau cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập niết bàn
Kiến thức
"Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..".

Ai là người biết cúng dường Như Lai đúng nghĩa?
Kiến thức
Đức Phật dạy: "Những người tin ta, thương ta, họ sẽ được phước báu nhưng không đủ điều kiện giải thoát. Nhưng những người thực hành giáo pháp, họ sẽ giác ngộ giải thoát". (Vậy muốn được hưởng phước báu hay muốn giải thoát? Quyền nơi bạn.)

Hành trang của người xuất gia: Ðức hạnh và trí tuệ
Kiến thức
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn và pháp môn nào cũng được diễn đạt qua các bộ kinh. Người tu Đại thừa thường chọn các bộ kinh lớn như Pháp hoa, Hoa nghiêm, Bát-nhã để lập chí tu hành.
Xem thêm