Lìa thoát sự đắm nhiễm
Một chiều cuối năm heo may về lạnh úa, dưới mái hiên một ngôi chùa nhỏ nằm cheo leo nơi đỉnh đồi gió hú; đôi ba người ngồi quanh chiếc bàn cũ kỹ bên những chén trà nghi ngút khói đang thỉnh vấn một vị thầy đã ngoài 80 có khuôn mặt thật hiền từ và luôn nở những nụ cười thật phiêu diêu, thoát tục.
Một người đàn ông râu tóc bạc phơ cất giọng ngậm ngùi, thở than về nhân tình thế thái: “Thầy ạ, con người ở thời đại vật dục này luôn bị bao quanh bởi những hoàn cảnh, điều kiện, môi trường, chất liệu đầy ắp những độc tố như sắc dục, bạc tiền, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ - và hình như tất cả những thứ ấy đều mang lại cảm giác hạnh phúc nhất thời, mang lại sự thích thú, thỏa mãn, vui vẻ dù là trong thoáng chốc cho tâm thức và thân xác của họ. Sao những thứ ấy lại có sức hấp dẫn ghê gớm vậy, thầy nhỉ?”.
Vị thầy khẽ nở một nụ cười bao dung, thấu hiểu; rồi từ tốn trả lời: “Sự thỏa mãn, thích thú đó phát sinh là do sự tương thích giữa những độc tố trong tâm thức và những độc tố nơi cảnh ngộ bên ngoài, ông ạ. Chính vì lẽ đó một khi đã tiếp xúc, đã được hưởng thụ là ngay lập tức con người trở nên đắm nhiễm những đối tượng ấy và khó mà lìa xa được nữa. Sự đắm nhiễm ấy một khi đã sinh khởi, sẽ tăng dần theo thời gian và ngày càng kiên cố, vững chắc, lớn mạnh như một thân cây ngày càng tăng trưởng vững vàng; và một khi đã thành cổ thụ mọc rễ chằng chịt trong tâm thức thì ôi thôi, con người sẽ khó mà lìa thoát, khó mà đốn bỏ thân cây kia. Đất đai mà thân cây kia mọc lên rồi phát triển dữ dội chính là mảnh đất tâm thức của chúng ta; khi còn bé nhỏ, non nớt thì việc bứng gốc, vứt bỏ sẽ dễ hơn nhiều so với thời điểm nó đã trở thành cổ thụ. Lúc đó việc nhổ bỏ thân cây nọ sẽ khiến mảnh đất kia bị xới tung, tan nát như tâm thức đớn đau, quằn quại của con người ta khi phải rời xa, từ bỏ những đắm nhiễm đã quá sâu dày ấy, ông ạ”.

Vị thầy vừa dứt lời, thì một người đàn ông trung niên bất chợt lên tiếng: “Thầy ạ, vậy có phải ý nghĩa sự có mặt, bổn phận của chúng ta nơi cuộc đời này là làm thế nào vượt thoát khỏi những đắm nhiễm sâu dày ấy không?”.
Vị thầy trầm ngâm một hồi lâu rồi lại khẽ nở một nụ cười nhẹ nhàng, lãng đãng và đáp rằng: “Đắm nhiễm là dính mắc, là phụ thuộc, là nô lệ, là tâm thức vĩnh viễn không còn sự tự do; và khi không còn tự do thì khổ đau là tất yếu. Tất cả mọi khổ ải, phiền muộn, trắc trở, sầu bi, oan trái... trên cõi đời ô trược này chẳng nằm ở tha nhân; chẳng phải do người đời xấu xa, tồi tệ; chẳng phải do tình đời đen bạc, đổi thay; mà mọi vấn đề đều là từ chính mình mà phát sinh ra vậy; và mọi chuyện trong cuộc sống này tựu trung đều quay về trong cuộc chiến miên viễn, khốc liệt, tàn bạo, dữ dội với chính bản thân mình.“Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng chính mình”[*]. Lời Đức Phật dạy như một chân lý ấy đã nói lên toàn bộ ý nghĩa cuộc sinh tồn này. Chiến thắng chính mình là chiến thắng những đắm nhiễm, buông lung, chấp nhận, thỏa hiệp sống chung với những độc tố của tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn và đố kỵ đầy khắp trong mỗi con người chúng ta đó thôi, ông ạ”.
Vài phút im lặng trôi qua, rồi một giọng nói ngập ngừng của một cậu thanh niên nọ bất chợt cất lên nghe buồn xa vắng như có nỗi niềm u ẩn nào đó chưa thể tỏ tường: “Theo con thì khi mình say đắm, si mê một đối tượng nào đó, hình như cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn, nồng nhiệt hơn, cháy bỏng hơn và ngập tràn niềm vui thầy ạ. Con thấy như thế có đúng không thầy?”.
Vị thầy quay nhìn chàng thanh niên với ánh mắt đầy thương cảm, bao dung; sau đó nhìn lên bầu trời bát ngát xa xăm một hồi lâu, rồi thầy khẽ nói:
“Những đối tượng mà con người đắm nhiễm trong thế giới nhị nguyên này luôn tồn tại trong nó hai mặt, hai tính chất; một mặt nó mang lại sự thỏa mãn, hài lòng khoái lạc, thích thú nhất thời cho kẻ phàm phu mê đắm, để dần dà đưa những người ấy vào vòng cương tỏa trói buộc của nó; một khi đã đắm nhiễm sâu nặng thì khuôn mặt thứ hai, hay tính chất thứ hai sẽ xuất hiện - tính chất này, khuôn mặt này luôn tương phản, đối nghịch với tính chất, với khuôn mặt lúc trước; và rồi nó sẽ gieo đau thương, bão tố, phiền muộn, sẽ hành hạ kẻ đắm nhiễm đến tàn tạ thân tâm. Bản chất của những đối tượng đó là như vậy; nó tiêu biểu cho đặc tính bất biến của yêu ma là chiêu dụ, khêu gợi, mời gọi và sau đó là buộc ràng, là phá hủy, là làm bại hoại, hư hỏng, mê muội, là hạ gục kẻ nào muốn kháng cự, muốn thoát ra khỏi sự mê hoặc của nó.
Con chỉ mới tiếp cận một mặt của vấn đề con ạ và chưa nhìn thấy, chưa tiếp cận, chưa trải nghiệm cái tính chất thứ hai, cái mặt bên kia của vấn đề; nên bây giờ con chưa thể cảm nhận những gì ta nói; có lẽ một thời gian nữa sau khi có sự trải nghiệm, con sẽ có cái nhìn khác chăng?”.
Người đàn ông râu tóc bạc phơ lại cất giọng trầm buồn, u oán: “Thầy ạ, làm thế nào chúng ta có thể lìa thoát được sự đắm nhiễm kia?”. Vể thầy khẽ cười và không trả lời trực tiếp câu hỏi ấy; mà quay lại hỏi người đàn ông nọ rằng: “Khi ông nhìn thấy hình ảnh một con vật thích thú, say sưa tìm chút thức ăn trong một đống phân tanh hôi, nhầy nhụa; ông thấy thế nào?”.
Người đàn ông ngập ngừng đôi chút rồi đáp: “Nhìn thật ghê sợ, gớm ghiếc, thầy ạ”.
Và thầy lại hỏi tiếp: “Khi ông nhìn thấy một kẻ nghiện ma túy, lúc lên cơn ghiền cầm ống kim tiêm v à oda thịt, ông thấy thế nào?”.
Người đàn ông đáp ngay rằng: “Hình ảnh đó thật đáng sợ và lòng mình cảm thấy xót thương, tội nghiệp kẻ ấy vô cùng.”
Rồi thầy lại hỏi thêm: “Khi ông thấy một đứa bé òa khóc nức nở vì mất món đồ chơi mà nó yêu thích, ông thấy thế nào?”.
Người đàn ông bật cười và đáp rằng: “Thấy buồn cười chuyện con trẻ vớ vẩn và tội nghiệp nó, thầy ạ”.
Vị thầy bèn đáp: “Khi ông thấy ghê sợ, gớm ghiếc, buồn cười và trong ông khởi lên niềm xót thương vô hạn nghĩa là ông đã nhìn ra thực tướng của đối tượng, vấn đề kia; hoặc nhìn ra hậu quả nguy biến, tai hại của việc làm ấy rồi đó; và đối tượng, hành vi ấy không còn hấp dẫn ông nữa vì không còn sự tương thích giữa ngoại cảnh đó và nội tâm của ông nữa rồi. Bây giờ tâm thức ông đã ở một cảnh giới khác; nên khi nhìn xuống những đối tượng, sự việc nọ, ông chỉ thấy sự bẩn thỉu, gớm nhờm, ngô nghê, trẻ con, hay tai hại, nguy biến mà thôi. Tương tự như thế, một kẻ đã lìa thoát sự đắm nhiễm thì khi quay nhìn lại hình ảnh những con người chìm đắm, say mê trong sắc dục, danh vọng, tiền tài nơi những hình hài bất tịnh, nơi những cảnh đời uế trược kia, hẳn cũng sẽ thấy thật ghê sợ, tội nghiệp vô cùng. Sự kinh sợ đó là do họ đã quán chiếu sâu xa và nhìn thấu bản chất ô uế, nhảm nhí của đối tượng, của vấn đề; cùng hệ quả bi thảm của sự đắm nhiễm. Để có được cái nhìn thấu suốt ấy, tâm thức họ phải đạt tới một cảnh giới cao hơn; và để có thể đưa tâm thức mình vào những cảnh giới cao hơn, con người ta phải tu dưỡng miệt mài để trí tuệ ngày càng cao viễn hơn; khi đó họ mới có thể lìa xa, vứt bỏ, đoạn tuyệt với những gì trong tâm thức có tính tương thích với cảnh giới thấp kém kia; và một khi đã tịnh hóa được những độc tố trong con người chính mình, thì sẽ không còn sự tương thích trong-ngoài và khiến những đắm nhiễm kia không thể nào sinh khởi được; để giải được một bài toán cao cấp chúng ta phải học đến bậc đại học; tương tự như vậy, chỉ với trí tuệ cao viễn, thâm sâu, chúng ta mới lìa thoát được căn bệnh đắm nhiễm nan giải kia”.
Người đàn ông trung niên khi nãy, sau khi nghe vị sư già nói xong, bỗng thở dài ngao ngán; rồi lầm bầm: “Khó quá, khó quá, thầy ạ. Biết làm sao cho khỏi đắm nhiễm bây giờ khi mà mọi thứ trên cuộc đời này đều là những cạm bẫy kéo ta xuống, đưa ta vào vòng trói buộc chập chùng, mênh mang!”
Như cảm được nỗi lòng ai oán kia, vị thầy mỉm cười nhẹ nhàng và khẽ đáp: “Xin ông đừng bi lụy, chán nản thế. Không có những cạm bẫy ấy thì không còn là cõi nhân gian này và không ai cần phải tu hành nữa. Vấn đề không phải là không bao giờ rơi vào vòng cương tỏa đó mà là nhận ra được những lầm lẫn, si mê của chính mình và vĩnh viễn từ bỏ, lìa xa nó, ông ạ. Thanh tịnh thân tâm là việc làm dài lâu, triền miên của cả một cuộc đời nhằm chuyển hóa, thăng hoa những độc tố nọ thành năng lượng sáng tạo, thiện lành; rồi dần dà chúng ta sẽ lìa xa sự đắm nhiễm.
Tóm lại, “lìa thoát sự đắm nhiễm” cuối cùng vẫn là cuộc chiến sinh tử miệt mài suốt đời, khốc liệt, đơn độc với bao độc tố nơi chính bản thân mình mà thôi.
Tan buổi thỉnh vấn, từ biệt vị thầy và mọi người, tôi đi về gian phòng trọ nằm phía cuối ngọn đồi bên kia; trên đường về hoang vắng đó có băng qua một đầm lầy nở đầy hoa sen; nhìn những cánh hoa sen thảnh thơi, tỏa hương sắc thanh thoát và nhẹ nhàng vươn lên từ đám đất sình lầy bùn nhơ, chợt nghe lòng mình lãng đãng; bâng quơ, thầm thì tôi tự nhủ: “Bùn và sen là bất khả phân ly; nếu không có đắm nhiễm làm sao có lìa thoát trên đời!”.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Từ "chẩn đoán bằng định mệnh" đến "bước nhảy xuyên hầm lượng tử"
Phật pháp và cuộc sốngÁnh sáng Phật giáo, giải Nobel Vật lý 2025 và hành trình chuyển hóa của hiện tượng Khắc Hưng.
Mẹ tôi cũng bán bắp
Phật pháp và cuộc sốngTrên đường từ Trường Đại học Quy Nhơn về phòng trọ, chỗ gần ngã tư có một người phụ nữ lớn tuổi bán bắp luộc hay ngồi ở đấy. Tôi đi bộ đến trường, chiều nào tan học về cũng gặp cô và nghe cô mời chào.
Ta cứ tưởng thứ mình tìm nằm ở bên ngoài
Phật pháp và cuộc sốngTình yêu lớn nhất mà ta khao khát là cảm giác được hiểu, được an trú, được bình yên không đến từ ai cả. Nó đến từ khoảnh khắc ta quay về bên trong và thấy mình đủ.
Thân này thật sự là khách trọ
Phật pháp và cuộc sốngCó thân là có khổ, điều ấy ai cũng từng nghe nhưng không phải ai cũng thấy. Ta chỉ thật sự thấy khi thân bắt đầu đau, khi hơi thở trở nên nhọc, khi một căn bệnh bất ngờ kéo đến và lấy đi những gì ta tưởng thuộc về mình.
Xem thêm














