Mục đích của tu Phật là gì?
Là người tu Phật, chúng ta phải biết mục đích của tu Phật là gì, Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni phải không? Chữ Phật ở đây chỉ một con người đã được giác ngộ. Ngoài Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, những người giác ngộ như Ngài cũng đều gọi là Phật. Cho nên, nói tới tu Phật là tới sự giác ngộ.
Mục đích của tu Phật là gì?
Tu hành là đi tìm lại “bản lai diện mục” của chính mình, tức là đi tìm thấy khuôn mặt thật của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Nếu người tu hành chưa sáng tỏ việc này thì khác gì mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được, thì làm sao có thể khai mở trí huệ?
Mục đích của tu Phật là gì, trước hết chúng ta phải biết, pháp môn Tịnh độ mà chúng ta đang tu là pháp vô thượng của Như Lai, là pháp chẳng có hình tướng gì cả, vì sao? Vì Tịnh độ là pháp ở trong tâm thì làm sao có hình tướng chứ! Sở dĩ chúng ta hiện nay chăm chỉ tu đạo là vì muốn tìm thấy con đường giải thoát, không muốn bị chìm đắm trong luân hồi sanh tử nữa. Thế nhưng, do tham, sân, si vẫn cứ luôn là cục đá lớn cột chặt chân chúng ta, nên dù chúng ta tu hành rất chăm chỉ tu hành, nhưng trên thực chất, một chút phiền não tham, sân, si cũng chẳng đoạn được. Đó gọi là gì? Là tu hành thất bại! Do đó, chúng ta muốn tu đạo giải thoát sanh tử thì trước hết cần phải diệt trừ tham, sân, si, sau đó mới có thể đạt đến chỗ thân, miệng, ý đều trong sạch. Đương nhiên, đây không phải là việc dễ làm, bởi lẽ từ thuở vô thủy tới nay, nghiệp chướng mà chúng ta tạo ra đầy ngập như núi cao, lại kiên cố như sắt thép, khó hòng mà phá vỡ được.
Ngày nay chúng ta phát tâm tu hành thì trước hết cần phải tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Nghiệp chướng chính là phiền não phát sanh khi chúng ta tiếp xúc cảnh giới của sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Khi chúng ta vừa tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần, liền khởi tâm động niệm, thì phải biết đó chính là đang tạo nghiệp. Do đó, nếu chúng ta không khéo hiểu rõ thì mọi việc tu hành lại chính là tạo nghiệp. Núi cao nghiệp chướng ngày càng đắp cao thêm, thì vĩnh viễn không còn cách gì thoát ra khỏi vòng sanh tử.
Mỗi khi chúng ta khởi tâm động niệm thì tự mình phải nhận biết chính mình đã sai lầm rồi đó. Sai lầm ở chỗ nào? Cái “ta” còn tồn tại! Hễ còn cái “ta” là còn ý niệm, vì ý niệm phát xuất ra từ cái “ta”. Cái “ta” không còn thì ý niệm cũng theo đó mà dứt bật. Ý niệm rất vi tế, chỉ cần có một ý niệm bắt đầu khởi dậy, thì tất cả ý niệm khác liền theo đó mà tiếp nối dấy lên. Khi chúng ta chê kẻ khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn đúng, luôn tốt; hoặc nghe người ta nói mình tốt thì vui thích, bị kẻ khác chê xấu thì khó chịu, buồn rầu, thì đó đều là “nhân-ngã tướng.” Thấy thật sự có mình, có người khác, có các tướng đúng sai, phải trái, vui buồn v.v…, tức là vẫn còn chưa xả bỏ “nhân-ngã tướng.” Khi tu hành mà vẫn còn có tướng nhân-ngã, thì không thể nào yên ổn được. “Nhân-ngã tướng”, chẳng những không có lợi gì cho việc tu hành và đạt mục đích của tu Phật, mà lại còn ngày ngày do đó mà tăng trưởng thêm phiền não.
Trong Phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn, Đức Phật nói: “Sang giàu thương muốn, không thể bền giữ, đều phải lánh xa, chẳng thể an vui” là nói đến cái độc hại của tam độc “tham, sân, si”. Tham, sân, si chính là những thứ xấu xa, rác rến chất đầy trong đầu não của chúng ta, khiến chúng ta phải chịu nhiều thống khổ. Nếu chúng ta không trừ sạch tham, sân, si, thì không có cách gì khai mở trí huệ! Chúng ta chỉ cần khởi ý niệm tham lam bất cứ một thứ gì, bèn là tạo nghiệp luân hồi. Vì thế ngay sau câu nói ấy, Đức Phật liền bảo: “Phải nên tinh tấn, sinh nước An Lạc, trí huệ thông suốt, công đức thù thắng. Chớ nên phóng tâm vào chỗ ham muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng sau người.”
Ở đây, Phật khuyên chúng ta chớ nên “phụ kinh bỏ giới”, chớ chẳng bảo chúng ta ham muốn kinh pháp. Vì sao chẳng nên ham muốn kinh pháp? Bởi vì khi tâm tham khởi dậy bèn là tạo nghiệp luân hồi. Phật pháp cũng chẳng nên tham, huống gì phi pháp ! Phật nói: “Phật pháp cũng phải buông, huống gì là phi pháp” có ý bảo chúng ta buông bỏ cái tâm tham Phật pháp, chớ nào có ý kêu chúng ta phụ bỏ Phật pháp bao giờ đâu! Ngay cả Phật pháp cũng chẳng nên tham! Hễ khởi lên cái tâm tham đắm một thứ gì, thì nhiều thêm một thứ vọng niệm và nghiệp chướng. Bớt tham một thứ gì, thì ít đi một chút nghiệp chướng và tăng thêm một phần giải thoát. Khi chúng ta nổi lòng tham lam một thứ gì, dù nhỏ như đầu sợi lông, thì cũng chẳng thể nhập đạo. Nếu chúng ta vẫn còn lòng yêu đương, tình ái trong quan hệ phụ mẫu, vợ chồng, con cái, bạn bè, đồng sự, bà con v.v.., thì trăm ngàn vạn kiếp vẫn phải ở mãi trong luân hồi sanh tử. Ngược lại, nếu chúng ta buông xả được ái dục, buông xả được trần cảnh thì sẽ có được hạt giống Phật, giúp mình đạt được mục đích của tu Phật tương đối dễ dàng và mau chóng hơn.
Ngã mạn là tánh cứng đầu, ương ngạnh, cố chấp, luôn nghĩ tới cái “ta,” luôn cho rằng “ta” đúng. Người có ngã-chấp thì trí huệ không thể khai mở, làm chướng ngại đường đạo, không cách gì giải thoát. Ở trong thế gian, những người càng có tài năng, học vấn bao nhiêu thì ngã mạn càng cao bấy nhiêu, kiến trí huệ chân thật (Bát Nhã) càng thêm bị che lắp. Đương nhiên, người vừa có tài năng, học vấn giỏi, địa vị cao, lại vừa khiêm cung, từ tốn, chẳng ngã mãn thì người ấy nhất định là nhân tài học Phật. Do đó, nếu chúng ta không khéo tu hành, thì hậu quả là cứ mãi tăng trưởng tà kiến, suy nghĩ lăng xăng, tính toán việc này việc nọ. Tu hành là tu ở sáu căn, không cho nó dính với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) để đầu óc của mình được thanh tịnh. Nếu chính mình vẫn chưa thanh tịnh, tức là vẫn chưa giải thoát, mà cứ lo toan tính cho người khác thì cái mục đích của tu Phật đạt được chỉ là một cái tâm phiền não quá sức.
Chúng ta phải nên biết trong tâm của hết thảy chúng ta đều là Thiện ít, Ác nhiều. Thế lực xấu ác rất mạnh, còn khuynh hướng tốt thì rất yếu. Tư tưởng xấu ác của chúng ta luôn đứng đầu, lấn át tư tưởng thiện; nên chung cuộc cái thiện tâm bị cái ác tâm đè bẹp. Ðó là điều không tốt cho việc tu đạo giải thoát. Từ thuở vô thủy đến nay, do ý niệm thiện trong lòng chúng ta quá ít ỏi, còn ý niệm xấu ác lại quá nhiều, nên tự-tánh trong sạch luôn bị che phủ, không xuất hiện được. Bởi do niệm ác tích lũy ấy mà chúng ta cứ mãi dấy khởi vọng tưởng tham, sân, si, không cách gì đề kháng được nổi. Ðó chính là nghiệp chướng mà chúng ta cần phải tu sửa và chế phục. Nếu chúng ta không chế phục được tham, sân, si thì dù có đi đây đi đó nghe giảng kinh pháp cho thật nhiều cũng là vô dụng. Nghe vô một đống kinh pháp mà phiền não vẫn đầy dẫy, thì chẳng có chỗ nào thông đạt cả! Phật pháp chỉ có thể lãnh hội bằng cái tâm thanh tịnh, chẳng thể dùng cái tâm tham, sân, si mà hòng thông đạt Phật pháp. Nếu chúng ta thấy có người bức xúc, tức giận đối với lỗi lầm của người khác, thì phải biết người ấy vẫn chưa thông đạt Phật pháp.
Khi nghiệp chướng tới thì phiền não khởi dậy. Khi không có chánh niệm thì tà niệm khởi dậy. Lúc ấy, chúng ta sẽ thấy người nào cũng không hợp nhãn, thấy việc gì người khác làm cũng chẳng vừa lòng. Do vậy, chúng ta luôn cảm thấy rất tiêu cực, đời và đạo gì cũng đều vô vị. Thật ra, không cần biết chúng ta có lý hay vô lý, hễ chúng ta khởi phiền não là đã sai lầm rồi! Khi nào tâm không còn lo lắng, sợ hãi nữa thì tâm mới an định. Khi tâm còn lo sợ thì không thể an định. Lo lắng, sợ hãi của mình chỉ là tâm lý do mình cảm nhận thôi, kẻ khác không cảm thấy như mình; nên dù ta lo lắng, sợ hãi giùm cho người khác thì cũng chỉ có ta là bất lợi. Do chính ta không tự chủ nên mới có cảm giác lo sợ. Lo sợ quá, lo sợ hoài thì tâm phát sanh phiền não, không an định nên chẳng còn đạo tâm tu hành nữa!
Làm thế nào để tu Phật đúng cách?
Khi chúng ta thật sự học Phật thì mới thấy việc tu hành không giản dị đơn giản chút nào! Nếu tự cho mình là phàm phu không thể tu thành thánh đạo thì đó là tâm hạ liệt. Nếu tự cho mình là thánh nhân, có đủ bản lãnh tự mình thoát ra khỏi luân hồi sanh tử, không cần nương vào đại nguyện lực gia trì của A Di Đà Phật thì đó là cống cao ngã mạn. Cả hai thứ tâm hạ liệt và cống cao ấy đều là tâm chấp trước! Dùng cái tâm chấp trước để tu hành thì nhất định sẽ thất bại. Như vậy, chúng ta phải hành như thế nào mới đúng? Trong kinh, Phật dạy: “Tâm không hạ liệt, cũng không cống cao, thành tựu căn lành, thảy đều tăng thượng.” Chúng ta có lòng tin tưởng rằng: “Tuy hiện nay tôi là phàm phu, nhưng tôi cũng có khả năng thành Phật” thì đấy chính là “tâm không hạ liệt, cũng không cống cao.” Một phàm phu như tôi mà cũng có khả năng tu hành tới nơi tới chốn. Nghĩ như vậy thì mình mới có thể tinh tấn hơn. Chúng ta phải thật sự có cái tâm như vậy thì mới có thể tăng trưởng và thành tựu các căn lành vô thượng.
Chúng ta cứ thường hay nói “tôi, tôi... thế này thế nọ”. Bởi do cái quan niệm về “tôi” đó cứ tác oai, tác quái, nên mới có cái tâm gọi là “hạ liệt” và “cống cao” phát sanh, làm chướng ngại chính mình trong việc tu đạo giải thoát. Còn ý niệm về cái "tôi” thì chưa thể khai ngộ. Bởi vậy, chúng ta phải cố gắng trừ sạch ngã tướng, không còn “cái tôi thế này thế nọ” nữa, thì mới hòng thành tựu đạo giải thoát cho chính mình. Sau khi chính mình đã thật sự thành tựu rồi, mới có thể giúp kẻ khác thành tựu. Muốn trừ ngã tướng thì cần phải không có tâm phân biệt. Nếu còn chấp chặt vào ý niệm về cái “tôi” thì dù có tu hành chăm chỉ đến mấy cũng sẽ chẳng thể đi tới đâu. Trừ được ngã tướng thì trí huệ mới khai phát, còn ngã tướng thì trí huệ còn bị che lắp, chẳng thể chiếu soi. Tu hành, không thể chấp trước, chấp trước liền sanh phiền não! Muốn trừ cái cái chấp về “tôi” thì phải giảm bớt lòng ham muốn, phân tranh. Nếu chúng ta không suy nghĩ về mình, về người, về chúng sanh hay về thọ mạng nữa thì còn gì nữa mà phân tranh!
Làm thế nào để tu Phật đúng đắn? Chúng ta cần tu rất nhiều hạnh nhẫn. Nhẫn nhục, nhẫn nại là căn bản, gốc rễ của việc tu hành. Hòa Thượng Hải Hiền nói: Không có cái nào ngon hơn cái nào cả, cái này ngon cái kia cũng ngon, cả hai cái đều ngon như nhau. Đạo lý này rất cao minh! Khi gặp cái gì tốt thì ta mỉm cười, khi gặp cái gì xấu ta cũng vẫn mỉm cười. Vì sao? Vì tốt hay xấu đều do tâm phân biệt đặt bày ra, chớ thật ra trong Chân Như Thật Tướng đâu có gì sai biệt, nên cũng đâu có tốt xấu. Vậy, khi chúng ta có ý nghĩ tốt hay xấu thì phải biết, đó chính là phiền não đang dấy lên trong lòng mình. Lúc vừa nhận biết điều này, thì lập tức hướng về Đức Phật A-Di-Ðà mà niệm danh hiệu của Ngài, niệm niệm tiếp nối không ngừng để đập nát chúng ngay. Khi phiền não càng nhiều thì chúng ta càng niệm được nhiều câu Phật hiệu, như vậy phiền não đã biến thành Bồ Đề rồi! Ðó là cách dùng tâm trị tâm mà Phật, Tổ đã dạy chúng ta trong pháp môn Tịnh độ. Con đường tu hành của chúng ta cần phải trải qua nhiều gian khổ và thử thách lắm; có như vậy mới mau chóng khai ngộ. Nếu không có gian nan, thử thách, thì khó hòng mà khai ngộ. Vì sao? Vì sự khai ngộ có mặt ngay ở nơi Hoặc, Nghiệp, Khổ, nên chúng ta phải chiếu soi ngay ở nơi Hoặc, Nghiệp, Khổ mà tìm thấy Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát.
Chúng ta không nên hy vọng mọi người sẽ làm tốt và đối xử tốt với mình. Cách tu Phật là phải chịu thiệt thòi, thua lỗ, lép dế; có vậy mới tiến bộ. Ðiều tốt của người khác thì ta góp nhặt để học, điều xấu của người khác thì ta vứt nó qua một bên. Tự mình trong lòng thông hiểu là đủ rồi! Chúng ta thuận theo đây mà tu hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật, ắt sẽ sớm thành tựu Tịnh nghiệp cho chính mình. Tu hành thì đừng nên hỏi “đúng” với “sai,” cũng đừng bàn luận “hữu lý” hay “vô lý.” Dù mình đúng lý mà người khác nói mình sai, cũng cứ tiếp nhận ý kiến ấy. Vì sao phải làm vậy? Vì hễ mình tự nhận mình sai dù mình đúng, thì phiền não sẽ không khởi dậy; bằng ngược lại, cứ khăng khăng cho mình là đúng, thì tâm mình sẽ rất bất an, phiền não sẽ dồn dập kéo tới. Tôi đúng mà người ta cứ nói tôi sai, trong tâm cảm thấy rất oan uổng và tức giận, vậy là hỏng rồi! Công phu niệm Phật, tu thiền, niệm chú gì cũng đều mất sạch hết ráo chỉ vì không thể nhẫn nhục. Tu hành cần phải có công phu nhẫn nhục. Nhẫn nhục chẳng những không phải là tâm không cống cao, mà còn là tâm không hạ liệt, nên do đó mà thành tựu hết thảy các căn lành.
Lại nữa, chúng ta tu hành đâu phải là để tranh chấp “đúng” với “sai”, nên dù mình đúng mà bị chê trách là sai, cũng phải nhận chịu thôi. Vì chịu nhận mình sai, chẳng những không bị thua thiệt, mất mát gì hết mà lại còn đạt được công phu định lực kiên cố, bất động. Công phu định lực càng kiên cố bao nhiêu thì phước, huệ càng tăng trưởng bấy nhiêu, nên Phật mới nói: “Tâm không hạ liệt, cũng không cống cao, thành tựu căn lành, thảy đều tăng thượng.” Chúng ta tu nhẫn nhục là tu định, nhằm để trừ sạch hết những nghiệp chướng đã tạo xưa kia, rồi đừng tạo thêm nghiệp mới nữa. Tu hành như vậy thì cả hai thứ phước, huệ mới gia tăng. Phương pháp tu nhẫn nhục hay nhất là niệm Phật, lạy Phật, phát tâm làm việc lao tác ở chùa hay các đạo tràng mà không tính toán. Hễ có tính toán, kể công, hoặc mong cầu được tiếng khen thưởng bèn sanh tâm phiền não; đó là tạo thêm nghiệp mới, chớ trong đó chẳng có phước, huệ chi cả.
Thật thà mà nói, sau khi đã xác định mục đích của tu Phật là gì, chúng ta tu Tịnh nghiệp thì chỉ cần chuyên tâm niệm Phật là đủ rồi, đối với mọi hoàn cảnh tốt hay xấu, đều không chấp trước, đều biết tùy duyên, đều luôn giữ tâm mình kiên cố, bất động, thì phước, huệ sẽ mau tăng thượng. Hôm nay là hôm nay, ngày mai là ngày mai, chuyện gì cũng đừng rớ tay, xỏ mũi vào thì công phu niệm Phật mới đắc lực. Tu hành mà quá đa sự, quá sung túc, tiếng tăm quá lừng lẫy thì dục vọng sẽ càng thêm phừng phừng nổi lên, lòng tham lam và ngã mạn sẽ cao ngất trời mây. Lúc đó, chúng ta có thật sự muốn buông bỏ thân tâm, thế giới để nhất tâm niệm Phật, cũng chẳng thể làm nổi; cho nên, chúng ta chẳng nên cầu những thứ này.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thế nào là viên tịch, tân viên tịch và thuận tịch?
Kiến thức 09:00 25/12/2024Nhân có học Tăng, khi đọc bài viết bàn về chữ "Tân viên tịch" không hiểu chắc là nói như vậy đúng hay sai....Chúng tôi cũng thấy cần nói rõ.
Luân hồi trong thần chú Lăng Nghiêm: Năng lực thần chú
Kiến thức 08:46 25/12/2024Thần chú Thủ Lăng Nghiêm còn gọi là Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra hay Bạch Tán Cái tức chỉ cho cái thể dụng rộng lớn của bản lai tự tánh. Bạch là trí tuệ. Tán cái là lòng từ bao la rộng lớn.
Đại sư, Pháp sư, Thái sư nghĩa là gì?
Kiến thức 20:26 24/12/2024Đại sư, Pháp sư, Thái sư là những danh từ chúng ta thường gặp trong các sách về Phật giáo, Đạo giáo và lịch sử.
Thần chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni (bản tiếng Việt)
Kiến thức 10:00 24/12/2024Thần chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni còn gọi là Tối Thắng Phật Đảnh Thần Chú, được đức Thế Tôn thuyết trong kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni. Thần chú này rất mầu nhiệm, oai lực bất khả tư nghì, độ thoát chúng sinh trong sáu đạo luân hồi và lần lượt đều được chứng quả giải thoát.
Xem thêm