Nay dục lạc đã hết
Gia đình là một trong những chủ đề được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các chuyện tiền thân.
Có những chuyện về các cặp vợ chồng sống với nhau hạnh phúc đến trọn đời như chuyện tiền thân Mudupàni (1) hay Kakkata (1). Có những cặp vợ chồng ban đầu lục đục nhưng về sau lại sống hạnh phúc như trong chuyện tiền thân Puta-Bhatta (1). Có những cặp vợ chồng phản bội nhau như trong chuyện tiền thân Cullapaduma (1) hay Uchitthabha (1). Có những cặp vợ chồng coi thường nhau như trong chuyện tiền thân Ruhaka1. Các câu chuyện này đều cho thấy nhiều khó khăn trong đời sống gia đình. Làm cách nào để khắc phục những khó chịu này? Chuyện tiền thân Asitàbhù (2) mang lại một hướng trả lời cho một số trường hợp.
Câu chuyện này, khi trú tại Jetavana, bậc Đạo sư đã kể lại về một thiếu nữ. Ở Savatthi, trong gia đình một người hầu hạ hai vị Đại đệ tử của bậc Đạo sư có một thiếu nữ rất đẹp, đạt được sắc đẹp tối thượng.
Hai vị Đại đệ tử của Đức Phật là ngài Sariputta (Xá- lợi-phất) và ngài Moggallana (Mục-kiền-liên). Ngài Sariputta được Đức Phật khen tặng là trí tuệ đệ nhất, ngài Moggallana được khen tặng là thần thông đệ nhất.
Đến tuổi trưởng thành, cô gái được gả cho một gia đình tương xứng. Người chồng không nghĩ gì đến nàng, tâm tư tham đắm vui chơi chỗ khác.
Đây là một trường hợp thường hay gặp trong đời sống gia đình. Cô gái có gia thế tốt, dung mạo đẹp đẽ, lấy chồng “môn đăng hộ đối”. Đó là điều mà nhiều thiếu nữ mong ước. Thế nhưng, người chồng lại không để ý gì đến cô. Cái khổ này của cô gọi là khổ do không được như mong đợi (“bất đắc ý khổ”). Nếu người có gia đình bị người phối ngẫu hững hờ thì đó là một việc cực kỳ khổ tâm. Trông bề ngoài, gia đình vẫn yên ổn, không có cãi nhau, chửi mắng nhau, đặc biệt là với các cặp vợ chồng có hiểu biết. Tuy nhiên, bên trong lại rất chán chường. Vậy, cô gái trong câu chuyện làm sao thoát khỏi thế khó này?
Nàng không để ý gì đến sự vô lễ của người chồng đối với mình, mời hai vị Đại đệ tử đến cúng dường bố thí lớn, nghe pháp và chứng quả Dự lưu.
Một trong những cái may của nàng là được tiếp xúc với hai vị Đại đệ tử của Đức Phật, nhờ vậy mà nàng hiểu rõ được đặc tính “khổ” của đời sống gia đình và không bám víu vào tình cảm với người chồng.

Từ đấy trở đi, nàng sống an lạc trong đạo, an lạc trong quả và nghĩ rằng: chồng ta không cần ta, ta không có việc gì phải sống với gia đình, vậy ta sẽ xuất gia. Nghĩ vậy, nàng báo tin cho cha mẹ rồi xuất gia và chứng quả A-la-hán.
Biện pháp giải quyết ở đây cực kỳ đơn giản: nếu không thương nhau nữa thì không sống chung nữa. Trong chuyện tiền thân Puta-Bhatta cũng có bài kệ viết:
Loài chim khi biết được
Cây không còn trái nữa
Chúng bay đến cây khác
Thế giới thật lớn thay.
Ba dấu ấn của Phật học là “Khổ, Vô thường và Vô ngã”. Từ ba dấu ấn này, ba thái độ phát sinh là “từ bỏ, thấy tánh Không và có bồ-đề tâm”. Giải pháp thoát khỏi tình thế khó khăn, tình thế “khổ” chính là “từ bỏ”.
Việc làm của nàng được các Tỷ-kheo biết đến. Một hôm tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo khởi lên câu chuyện: Thưa các Hiền giả, người con gái của gia đình ấy đi tìm mục đích tối thượng. Biết được người chồng không kể gì đến mình, nàng học tập giáo pháp với hai vị Đại đệ tử, được an trú trong quả Dự lưu; sau rốt, nàng xin phép mẹ cha để xuất gia và chứng quả A-la-hán. Như vậy, này các Hiền giả, thiếu nữ ấy đã đạt được mục đích tối thượng.
Mục đích tối thượng chính là loại trừ cái khổ. Sống trong gia đình, cô gái ấy thấy được cái khổ, cái chán nản khi bị người chồng hắt hủi. Nghe hai vị Đại đệ tử dạy dỗ, cô thấy được nguyên nhân của cái khổ đó là do bám víu vào tình cảm của người chồng. Nếu chồng quan tâm thì thấy hạnh phúc, nếu chồng hắt hủi thì thấy bất hạnh. Như thế khổ vui của cô sẽ phụ thuộc vào thái độ của người chồng. Mà người chồng thì... sáng nắng, chiều mưa. Vậy thì hạnh phúc của cô cũng... sáng nắng chiều mưa. Khi thấy được trạng thái bám víu đó và từ bỏ nó, cô trở thành người tự quyết lấy cái hạnh phúc của mình. Cô xuất gia để thực hành theo con đường đó.
Nghe câu chuyện, ta cảm thấy cô thiếu nữ này có vẻ“dễ dàng” trong việc “từ bỏ”. Thật ra, đây là một việc khó thấy và khó thực hiện. Nếu bị lâm vào tình trạng không được người phối ngẫu quan tâm thì có rất nhiều giải pháp để khắc phục: làm mới bản thân, chăm sóc người phối ngẫu cho tốt, dùng gia đình họ hàng khuyên can... nhằm giúp cho người kia “hồi tâm chuyển ý”. Sự “hồi tâm chuyển ý” xảy ra thì gia đình sẽ hạnh phúc trở lại như “gương vỡ lại lành”. Do bám víu vào sự biến động của trạng thái “hồi tâm chuyển ý” này nên các biện pháp này cũng tạo ra sự biến động rất lớn trong tâm lý người thực hiện. Giải pháp “từ bỏ” ít được nêu ra và có khi không được đề cập đến. Do đó, đây là một giải pháp khó thấy. Ngoài ra, giải pháp này cũng khó thực hiện vì các bám víu về tình cảm cũng như ý kiến ngăn cản của gia đình. Thiếu nữ này thấy được biện pháp “từ bỏ”nhờ được hai vị Đại đệ tử dạy dỗ và do đã từng “từ bỏ” trong các đời sống trước. Điều này được giải thích trong phần tiếp theo của câu chuyện tiền thân; rằng khi Đức Phật biết được câu chuyện mà các Tỳ-kheo đang thảo luận, Ngài cho các Tỳ-kheo biết là thiếu nữ ấy đã đi tìm mục đích tối thượng trong quá khứ, và Ngài kể lại câu chuyện tiền thân.
Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Benarès, Bồ-tát xuất gia làm vị ẩn sĩ ngoại đạo, đạt các thắng trí và thiền chứng, sống tại vùng núi Hy-mã-lạp. Lúc bấy giờ vua Benarès thấy con mình là hoàng tử Bramadatta uy nghi, oai vệ, khởi lên nghi ngờ nên đuổi chàng ra khỏi quốc độ.
Chuyện các vị vua đuổi con mình ra khỏi nước là nhằm: giữ tính mạng cho con không bị người khác giết để giành thừa kế, tránh để đứa con âm mưu giết cha để lên ngôi vua cho sớm. Bao giờ vua chết sẽ gọi hoàng tử đó về để truyền ngôi.
Hoàng tử đem theo vợ mình tên là Asitàbhù, đi vào Tuyết sơn, trú tại một am thất bằng lá, bắt cá và hái rau quả để sống.
Đoạn văn cho thấy hoàng tử đi vào Tuyết sơn nhưng không phải là người tu hành, chỉ là một người sống chờ thời.
Hoàng tử thấy một vị nữ thần trong núi, muốn lấy nàng làm vợ, không để ý gì đến người vợ đã mang theo. Asitàbhù thấy chồng mình đi theo nữ thần, nghĩ rằng: người này không đếm xỉa gì đến ta, đi theo nữ thần, vậy cần anh ta làm gì?
Nàng nghĩ ngay đến giải pháp “từ bỏ”. Đây là một cô gái rất kiên quyết. Trở lại câu chuyện.
Tâm không vui, nàng đi đến gặp Bồ-tát đảnh lễ, xin dạy cho một đối tượng để quán tưởng. Nhờ thế, nàng đạt các thắng trí và thiền chứng. Nàng đi đến Bồ-tát và đảnh lễ, rồi về đứng trước am thất bằng cỏ của mình. Bramadatta theo đuổi nữ thần, tìm khắp nơi không thấy được con đường nữ thần ấy đi, thất vọng, hướng mặt về phía chòi lá của mình. Asitàbhù thấy chồng đi đến bèn bay lên hư không, đứng trên tầng trời có màu sắc châu báu và nói: Này chàng tôn kính trẻ tuổi, nhờ chàng ta chứng được an lạc thiền định này. Nói xong, nàng đọc bài kệ:
Nay dục lạc đã hết
Cũng nhờ việc chàng làm
Như ngà voi bị cưa
Không gắn liền lại được.
Nàng cảm ơn người chồng hoàng tử vì chàng đã làm cho nàng ý thức được cái khổ bị hắt hủi trong đời sống vợ chồng và từ bỏ được sự bám víu vào tình cảm gia đình.
Nói vậy xong, trước mắt chàng, nàng bay lên hư không và đi tới nơi khác. Khi nàng đi rồi, hoàng tử Bramadatta, than thở, nói lên bài kệ thứ hai:
Do tham lam quá lớn
Do đắm say ham muốn
Ta bị vợ ruồng bỏ,
Ta đánh mất vợ ta.
Hoàng tử khóc than với bài kệ này rồi sống một mình trong rừng.
Bậc Đạo sư thuyết pháp thoại này xong cho biết; lúc bấy giờ, hoàng tử con vua và vợ hoàng tử là cặp vợ chồng mà các Tỳ-kheo vừa nhắc đến; còn vị ẩn sĩ khổ hạnh chính là Đức Phật.
Chú thích:
1. Có thể tham khảo tại kinh Tiểu Bộ tập 4 và tập 5 do Cư sĩ Trần Phương Lan dịch. Tiền thân Mudapani là Chuyện bàn tay mềm mại, số 262; Tiền thân Kakkata là Chuyện con cua, số 267; Tiền thân Puta-Bhatta là Chuyện Thức ăn đi đường, số 223; Cullapaduma là Chuyện Hoàng tử Liên Hoa, số 193; Uchitthabhatta là Chuyện Thức ăn thừa, số 212; Ruhaka là Chuyện Tế sư Ruhaka, số 191.
2. Chuyện nàng Asitabhu, số 234.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Để mẹ nói, còn mình giữ tâm an
Phật giáo thường thức“Cứ để mẹ than phiền. Còn con, con sẽ không dao động”.
Cách nhận biết ma chướng trên đường tu
Phật giáo thường thứcNay chúng ta bắt đầu học Phật, những điều gây chướng ngại cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta muốn đến đây nghe kinh, nhưng bạn thân của quý vị gọi điện thoại hẹn sẵn, khiến cơ hội của quý vị bị phá hoại. Đó là gì? Ma chướng đạo.
Nghiệp chứa ở đâu?
Phật giáo thường thứcMột lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức Nāgasena rằng: “Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?”.
Quở trách hay xúc phạm chư Tăng mang nghiệp rất nặng!
Phật giáo thường thứcViệc quở trách hay xúc phạm chư Tăng - theo lời dạy của ngài Luang Pu Mun - không chỉ là hành vi bất thiện trong đời sống thường nhật, mà còn là một loại nghiệp rất nặng, có thể đưa người tạo nghiệp vào những cảnh giới đau khổ sau khi chết.
Xem thêm














