Nghiệp và số mệnh
Sự sống trên thế gian này với thiên hình vạn trạng, phức tạp, đa năng, đa dạng, muôn hình muôn vẻ, khi thế này lúc thế khác và vô cùng mầu nhiệm.
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai. Ta thử đặt câu hỏi: Tại sao ta lại sinh ra trong nhà nghèo để chịu cảnh thiếu thốn, khó khăn mà không sinh vào nhà giàu để hưởng cảnh an nhàn phú quý? Tại sao mình đen xấu, bệnh tật mà không được đẹp đẽ như mọi người? Tại sao ta dốt nát quê mùa mà người kia lại thông minh, khôi ngô, tuấn tú? Chẳng lẽ thần linh thượng đế đã sắp đặt, an bài như thế sao? Tại sao sự đời lại trớ trêu như vậy?
Đạo Phật có cách nhìn chính chắn hơn nhờ biết suy tư và nghiệm xét, cho nên thấy rõ mọi sự thành bại, nên hư đều do mình tạo lấy không đổ thừa cho ai hết. Đức Phật là bậc giác ngộ, giải thoát hoàn toàn nên thấy chúng sinh luân hồi trong ba cõi sáu đường giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường.
Đạo Phật không phải là ngẫu nhiên luận rồi vô trách nhiệm đối với những hành vi của mình, hay cho rằng mọi chuyện rủi ro, may mắn, bất ngờ đều do bổng dưng, khi không, tự nhiên mà có.
Khái niệm về số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Thần ý luận, Đa thần giáo, Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh.
Thần ý luận cho rằng, có một đấng thượng đế quyền năng, có thể ban phước giáng họa, sắp đặt cuộc sống của con người, mọi sự khổ vui, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do đấng tối cao này sắp đặt.
Túc mệnh luận cho rằng, mỗi người sinh ra trong cõi đời này đều có số mệnh do quá khứ đã an bài và sắp đặt, mỗi cử chỉ, mỗi hành động đều do quyết định trước của quá khứ. Mọi cố gắng của con người đều vô ích.
Song, đạo Phật không chấp nhận như thế, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh đã định sẵn của đời trước mà không chịu làm mới lại chính mình, để chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.
Thiên mệnh luận cho rằng, có một ông trời qui định cho mỗi cá nhân một số mệnh. Trời kêu ai nấy dạ, con người không thể cải lại lệnh trời, cho nên Khổng Tử khi làm việc gì thành công hay thất bại đều nói do trời là như vậy. Con người không có quyền tự chủ, phải sống lệ thuộc ông trời, mọi cố gắng của con người không ngoài ý trời, trời ban cho tất cả, trời kêu ai nấy dạ.
Do đó, số mệnh hay số phận đều dựa theo quan niệm từ xưa, nó chỉ phù hợp khi con người chưa văn minh, chưa tiến bộ. Ngày nay khoa học đã chứng minh cho ta thấy rõ nguyên nhân, không có cái gì chỉ một nhân mà có thể hình thành. Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này là một chuỗi dài nhân duyên, chúng liên hệ chằng chịt với nhau bằng nhiều móc xích, theo nguyên lý cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Ai nói trên đời này do một nhân mà hình thành thì ta biết rằng người này chưa hiểu thấu lý nhân quả.
Quan niệm trời sinh ra vạn vật cho đến ngày hôm nay không còn phù hợp nữa. Đạo Phật nói rằng tất cả chúng sinh có mặt trên thế gian này đều do nghiệp tạo ra, nên phải chịu quả báo trong đời hiện tại, chứ không có sự sắp đặt của đấng nào cả.
Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là năng lực được tạo ra từ thân, miệng, ý được lặp đi, lặp lại nhiều lần rồi lâu ngày trở thành thói quen, chính thói quen đó có sức mạnh lôi cuốn lại chúng ta. Như khi ta mới tập hút thuốc, khi ấy ta làm chủ muốn hút thì hút, không hút thì thôi. Cho đến khi ta đã hút được vài tháng rồi khi nó đã ăn sâu vào tâm thức của ta, thấm nhuần vào cơ thể, lúc đó ta làm theo sự sai sử của nó cho nên gọi là nghiệp hay còn gọi là tập khí.
Có nhiều nghiệp đã được tạo ra trong quá khứ, cho nên ngày nay chúng ta sanh ra trong đời này có nét mặt, hoàn cảnh, sự sống không ai giống ai, rồi tùy theo sở thích của mỗi người trong hiện tại mà tạo ra nghiệp nhân mới.
Còn ai quan niệm rằng con người do trời định sẵn phải chịu số phận đã an bài, dù con người có cố gắng thay đổi cách mấy đi nữa cũng không thể thay đổi được. Nói như vậy là chúng ta phủ nhận quyền làm chủ bản thân của con người, trong khi đó chúng ta có đủ khả năng suy xét, quán chiếu nhận thức đúng sai và dùng trí tuệ để mà soi sáng muôn loài vật. Nếu chúng ta ai cũng chấp nhận số phận đã được định sẵn thì làm sao con người có thể thay đổi hoàn cảnh cuộc sống, mà càng ngày càng được thăng tiến tốt đẹp.
Ngược lại, đạo Phật nói rằng nghiệp do chúng ta tạo ra từ thân, miệng, ý thì chính mình có quyền thay đổi, chuyển hóa tuỳ theo khả năng sở thích của mỗi người. Như khi chưa biết tu tập, ta có thể trộm cướp lường gạt người khác bằng mọi mánh khóe thủ đoạn, nay ta biết tu tập rồi, thấy đó là hành động không tốt có hại cho mình và người nên dứt khoát không làm nữa. Trước do ta không hiểu nên ta làm ăn gian lận, lừa đảo, nay ta hiểu rõ về nhân quả nghiệp báo, thì ta làm ăn chân chánh trở lại để tạo nên nghiệp thiện lành v.v… Như vậy nghiệp là do sở thích của mình huân tập mà thành, vì thế mình có quyền thay đổi, chớ không cam chịu đầu hang cho số phận đã an bài.
Vì thế, trong hiện tại ta cảm thọ khổ hay vui, lành hay dữ, ta có thể đoán biết nghiệp trước kia của ta đã tạo nên. Người có ý chí, nghị lực thì sẽ thay đổi, chuyển hoá nghiệp xấu một cách dễ dàng, còn người chấp nhận theo số phận đã an bài thì vô tình làm mất đi khả năng làm chủ chính mình để rồi ta mãi sống trong đau khổ lầm mê không có ngày thôi dứt.
Nghiệp khác với số mệnh ở chỗ nghiệp có thể thay đổi được, còn số mệnh thì không thể. Nghiệp nói cho đầy đủ là nhân quả nghiệp báo. Nói đến nghiệp báo là nói đến nhân duyên, là nói đến sự chuyển biến linh động của nhân quả, còn nếu cho rằng số trời đã định, gieo nhân nào phải trả quả đó, thì không ai có thể tu hành mà chuyển hoá si mê, tối tăm mờ mịt, thành trí tuệ từ bi.
Trong Kinh A-hàm Phật dạy: “Người gây nhân xấu ác, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm. Tùy theo khả năng tu tập nhiều hay ít mà quả sẽ thay đổi”. Nếu nói gây nhân nào phải chịu quả nấy, thì vô tình ta chịu chết chìm trong si mê, tội lỗi nói như vậy có đúng như lời Phật dạy hay không?
Nói nhân nào quả nấy thật không sai đối với những người chịu chấp nhận buông trôi theo số phận, mặc tình chạy theo dòng đời ai làm sao ta làm vậy, ai làm bậy ta làm theo chẳng cần suy nghĩ, nhận định đúng sai là gì. Người yếu đuối, bạc nhược, thấp hèn thiếu ý chí sẽ chấp nhận cuộc đời như bèo dạt mây trôi, nhân như thế nào thì quả như thế ấy “nhân nào quả nấy” hay “ gieo gió gặt bão”.

Vấn đề nhân quả nghiệp báo nếu chỉ nhìn thoáng qua ai cũng biết rằng, tạo nhân xấu thì sẽ gặp quả dữ, làm việc thiện lành thì sẽ hưởng quả tốt đẹp. Mới nghe qua ta thấy rất đơn giản, nhưng suy nghiệm lại sự diễn biến của nhân quả rất đa dạng và phức tạp. Khi chúng ta chịu khó tu hành, thường xuyên suy tư quán chiếu thì mới có thể thấu rõ được nhân quả ba thời, quá khứ hiện tại vị lai, từ khi tạo nhân cho đến lúc thành quả cần phải có thêm các yếu tố phụ của duyên thì mới cho ra kết quả.
Trong kinh có câu chuyện Phật dạy như sau:
Một gia đình nọ có nuôi một đàn dê. Một hôm, có một người thường dân nghèo đến trộm dê, gia chủ bắt được đánh đập rồi đem ra quan huyện tri tố bỏ tù.
Lần sau, kẻ trộm dê là người của quan lớn, gia chủ bắt được chỉ tức tối bực bội la mắng chửi rủa vài câu rồi thôi, chớ không dám đối xử nặng nề như người thường dân trước.
Lần khác, gia chủ bắt được kẻ trộm dê là lính của nhà vua, gia chủ không dám tức tối, mà còn van xin, năn nỉ người ấy đừng đến bắt dê của mình nữa, nếu có bắt thì bắt con nhỏ thôi.
Trong ba trường hợp trên, người ăn trộm là thường dân bị đánh đập khổ sở và bị bắt bỏ tù thì đổ thừa tại trời. Trời hại tôi rồi. Trời nào làm thế! Chỉ do chúng ta tạo nghiệp xấu ác nên mới phải chịu quả báo khổ đau, làm gì có ai trừng phạt ta bao giờ. Hạng người này ta gọi là nhân nào quả nấy không sai. Hạng người thứ hai tuy cũng ăn trộm nhưng là người của quan, Phật dụ người này có gieo chút ít phước lành nên chỉ bị chửi mắng thôi. Hạng người thứ ba thân tín với nhà vua tuy có ăn trộm Phật dụ cho người biết tu thân, tu giới, tu tâm cho nên không bị gì mà chủ dê còn năn nỉ nữa.
Để làm sáng tỏ tiến trình diễn biến của nhân quả, chúng tôi xin dẫn một đoạn đối đáp trong Kinh A-hàm.
Có một vị Bà-la-môn đến hỏi vị đệ tử của Phật:
- Thưa Tôn giả, Sa-môn Cù-đàm dạy người tu mười điều thiện lành, sau khi chết được lên thiên đàng phải không?
Vị đệ tử Phật trả lời:
- Vâng! Đúng vậy, Thế Tôn chúng tôi đã dạy như thế. Mười điều thiện lành đó là:
1. Không giết hại, không trực tiếp giết, không xúi bảo người giết, không hoan hỷ khi thấy người giết, lại hay khởi lòng thương tưởng đến con người và muôn loài. Không những không giết hại mà còn khởi tâm phóng sanh, giúp các loài vật thoát được cái chết trong gang tấc.
2. Không gian tham trộm cướp mà còn bố thí cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ.
3. Không tà dâm dan díu với người khác khi đã có vợ, có chồng mà còn khuyên nhủ mọi ngưởi người hãy sống có tiết hạnh chung thủy để bảo hạnh phúc lứa đôi.
4. Không nói dối để lường gạt người mà hay nói lời sự thật, đúng chân lý
5. Không nói lời đòn xóc hai đầu làm mất đoàn kết hiểu lầm nhau, sinh ra ân oán thù hằn, mà hãy nói lời an ủi, sẻ chia trên tinh thần đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
6. Không nói lời mê hoặc để dụ dỗ người, lại hay nói lời hòa nhã vui vẻ, tạo sự gắn bó gần gũi, yêu thương nhau.
7. Không nói lời ác độc, mắng chửi làm người khổ đau.
8. Bớt tham lam, ích kỷ, ty tiện, lại hay che chở bao dung, độ lượng, tha thứ.
9. Bớt nóng giận, phẫn nộ để tạo sự thân thiện cho nhau, lại hay khởi tâm từ bi rộng lượng, thấy ai cũng là người thân thương nên dễ gần gũi và giúp đỡ lẫn nhau.
10. Bớt si mê, bởi đây là nguyên nhân chính dẫn đến cội nguồn tội lỗi. Do si mê, chấp trước, bám víu vào xác thân này nên thấy ta là trùm thiên hạ, ỷ tài, cậy sức làm tổn hại cho nhau, từ đó, thế giới này luôn xảy ra chiến tranh, giết chóc, tàn phá lẫn nhau.
Trả lời xong nhưng vị đệ tử Phật vẫn áy náy, không yên tâm, vì không biết lời giải đáp của mình có đúng không, nên vội vàng về gặp đức Phật thưa hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn, con trả lời khẳng định như thế có đúng không?
Đức Phật bảo:
- Cũng đúng, cũng sai.
Ở đây chúng ta cần tìm hiểu xem đúng và sai chỗ nào?
Phật pháp không nhất thiết phải cố định, mà tùy thời, tùy duyên, tùy theo hoàn cảnh mà linh động, uyển chuyển. Người tu hạnh thập thiện sau khi mạng chung được sanh về các cõi trời, đó là nhân nào quả nấy không sai. Ta gieo trồng được nhân tốt, tất nhiên ta được quả tốt. Điều đó không ai có thể chối cãi, phủ nhận được. Nhưng nhân quả nghiệp báo rất đa dạng và phức tạp, không thể theo một chiều mà xác định được rõ ràng, chính xác.
Người chấp nhận sống theo quan điểm có số phận đã an bài thì không có gì phải bàn cãi, nhưng đối với vấn đề nghiệp báo thì không phải là một tiến trình cố định. Bởi vì nghiệp được hình thành từ thói quen được lặp đi, lặp lại nhiều lần từ thân, miệng, ý của mình, chính vì vậy chúng ta có thể thay đổi nghiệp được.
Khi xưa chua biết tu, ý luôn khởi tham lam, mong muốn đủ thứ hết thân lại luôn làm những điều xằng bậy, làm tổn hại cho người và vật chỉ biết lợi mình mà thôi, ai ra sao mặc kệ. Nay ta biết tu rồi, ý luôn nghĩ những gì tốt đẹp và thánh thiện, không còn tham lam quá độ, khiến thân luôn làm những điều phước thiện, giúp người cứu vật. Trước kia, miệng luôn nói lời ác độc gây ra ân oán hận thù làm tổn thương đến người khác, nay biết tu rồi, miệng luôn nói lời chân thật, thiện cảm, vui vẻ, hòa nhã, thương yêu.
Người sống theo quan điểm có ông trời tạo ra đành phó thác và chấp nhận số phận của mình thì không thể thay đổi được hoàn cảnh, còn người tin sâu nhân quả thì tùy theo khả năng tu tập của mình mà nhân quả được thay đổi theo chiều hướng tích cực, làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Vị đệ tử Phật sau khi nghe Thế Tôn nói như thế, liền bàng hoàng sửng sốt, giật mình hoảng sợ liền hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã từng dạy tu hạnh thập thiện, chết được sanh lên cõi trời để hưởng phước, còn người tạo ác sau khi chết bị đọa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tại sao bây giờ Thế Tôn lại nói vậy?
Đức Phật từ tốn phân tích cho vị đệ tử:
- Tu thập thiện là nhân sanh lên cõi trời là không sai, nhưng gần tới giờ phút lâm chung, người đó gặp chuyện không được như ý, tâm nổi sân hận, tức tối, giận dữ, thế là tạo nghiệp bất thiện từ ý thức lúc gần chết thì người ấy không đủ phước sanh lên cõi trời. Ông khẳng định như thế, vô tình cho ta nói dối hay sao? Nếu người đó trong quá khứ tạo quá nhiều nghiệp xấu ác, nhưng hiện tại mới tu thiện một thời gian ngắn, nghiệp ác quá khứ quá nhiều, nên khi chết không được sanh lên cõi trời. Như vậy, ông vô tình hướng dẫn sai lời ta dạy. Vậy không phải phỉ báng ta là gì?
Ngược lại, người gây tạo mười điều ác là nhân dẫn đến đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhưng lúc gần chết, người ấy gặp được chánh pháp, biết thức tỉnh hồi đầu, nghiệp thiện từ tâm của họ quá mạnh, nên nghiệp ác không đủ sức dẫn họ vào chỗ xấu, thế là họ tái sanh vào cõi lành.
Trường hợp khác, người mới tạo nghiệp ác năm ba năm, nhưng trong quá khứ họ đã tạo nghiệp lành quá lớn, nên nghiệp ác không đủ sức dẫn họ vào chỗ xấu, họ cũng được sanh vào cõi lành. Ông khẳng định người tạo mười điều ác bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng đâu có đúng. Khẳng định như vậy chẳng phải phỉ báng lời dạy của ta là gì? Bởi người tạo mười điều ác thì có tội, nhưng tội đó nặng hay nhẹ còn tùy theo tâm người ấy ác ý hay không ác ý khi họ làm các điều ác đó.
Tóm lại, sau khi lâm chung được sanh lên cõi trời hay bị đọa lạc vào ba đường ác còn tùy thuộc vào tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp của người đó mạnh hay yếu đối với nghiệp ác hay lành. Do đó, trong đạo Phật không có gì là cố định cả. Nếu ai nói điều gì có tính cách khẳng định thì ta biết người này chưa hiểu thấu lý nhân quả nghiệp báo.
Những lời khẳng định trong đạo Phật chỉ mang tính chất răn nhắc và khích lệ để mọi người tu theo Phật cố gắng không làm những điều xấu ác mà thôi. Người Phật tử chân chính sẽ thấy nghiệp báo có thể thay đổi tùy theo năng lực tu tập của mỗi người. Hiểu thấu đáo giáo lý nhân quả thực hành đúng lời Phật dạy, chúng ta có thể làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh, không phó thác cuộc sống cho số phận đã an bài, mà bằng sự nỗ lực tự thân chuyễn hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, chuyển mê thành ngộ để sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tôi lúc trước, si mê cùng lầm lạc.
Gây biết bao, khổ não cho nhiều người.
Nhờ Tam bảo, mẹ hiền đã tế độ.
Tôi vượt qua, bao ngục tù tăm tối.
Để rồi đây, kết nguyện với muôn loài.
Hầu đền đáp, sẻ chia cùng tất cả.
Để cùng nhau, kết nối tình yêu thương.
Con nhớ ghi bài kệ này trong mỗi cuốn sách ở phần cuối, rồi đến đôi lời khuyến khích.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Nghiệp và số mệnh
Phật giáo thường thứcSự sống trên thế gian này với thiên hình vạn trạng, phức tạp, đa năng, đa dạng, muôn hình muôn vẻ, khi thế này lúc thế khác và vô cùng mầu nhiệm.
Bắt đầu từ điều thiện nhỏ nhất để gần quả Dự Lưu
Phật giáo thường thứcHãy thực hành như vậy mỗi ngày. Khi con biết tự hướng dẫn tâm, không để nó làm điều xấu, thì con đang bước rất gần đến dòng Thánh rồi.
Vì sao phải sám hối?
Phật giáo thường thứcTrong đời sống tu tập, “sám hối” không phải nghi thức mang tính tôn giáo đơn thuần, mà là nhu cầu tự nhiên của tâm người khi muốn trở về với sự trong sáng vốn có.
Nhân duyên đẹp, xấu, giàu, nghèo, sang, hèn của nữ nhân
Phật giáo thường thứcChuyện cô nữ tu ngoại đạo Sundarī và kỹ nữ Ciñcā-māṇavikā có sắc đẹp tuyệt trần nhưng lại mang thân phận thấp hèn, hạ liệt; và cả hai đều bị chết thảm, người thì bị giết rồi cái thây bị chôn trong đống rác, người thì bị đất rút với quả báo địa ngục; hai sự kiện ấy đã dấy sinh trong lòng hoàng hậu Mallikā không biết bao nhiêu là câu hỏi, về nhân quả đời này, đời kia cũng như sự “bí mật” của nghiệp!
Xem thêm














