Thứ tư, 24/04/2019 11:03 (GMT +7)

| Hà Nội 34°C /57%

Tịnh Độ tông
DỮ LIỆU
Thứ sáu, 05/08/2022, 08:30 AM

Pháp danh, pháp tự, pháp hiệu có ý nghĩa là gì?

Thời Đức Phật tại thế, chưa có pháp danh, pháp tự, pháp hiệu. Các Tỳ-kheo ở đời mang tên gì, khi vào đạo vẫn giữ nguyên tên đó như Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp.

Hỏi: Trong các buỗi lễ, khi giới thiệu danh vị của chư tôn đức, tôi thường nghe: Hòa thượng thượng A hạ B, Thượng tọa Thích C D, Đại đức Thích G H, kế đến là các chức vụ. Trong tang lễ hay lễ tưởng niệm (húy nhật) của chư tôn đức, tôi thường nghe vị chủ lễ xướng rằng: Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế, húy thượng A hạ B, tự C D, hiệu G H Hòa thượng Giác linh. Tôi không biết họ Thích cùng với pháp danh, pháp tự, pháp hiệu này có nguồn gốc và ý nghĩa như thế nào? Hàng ngày chư tôn đức thường sử dụng tên nào?

(THIỆN PHƯỚC, tranchibao...@gmail.com)

Pháp danh (húy) do bổn sư đặt khi thế phát xuất gia. Pháp danh được đặt theo phả hệ truyền thừa của mỗi dòng phái. Ảnh minh họa.

Pháp danh (húy) do bổn sư đặt khi thế phát xuất gia. Pháp danh được đặt theo phả hệ truyền thừa của mỗi dòng phái. Ảnh minh họa.

Đáp: 

Ý nghĩa pháp danh, pháp tự, pháp hiệu

Thời Đức Phật tại thế, chưa có pháp danh, pháp tự, pháp hiệu. Các Tỳ-kheo ở đời mang tên gì, khi vào đạo vẫn giữ nguyên tên đó như Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp.

Khi Phật giáo truyền sang Trung Quốc, ngài Đạo An (312-385) đề xuất lấy họ của Đức Phật (họ Thích-Sakya) làm họ cho người xuất gia, ngài cũng đổi tên là Thích Đạo An. Từ đây về sau, người xuất gia (Trung Quốc và các nước ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc) bắt đầu mang dòng họ Thích.

Tại Việt Nam, các vị thiền sư thời Lý-Trần (theo Thiền uyển tập anh) thường dùng pháp hiệu. Các Thiền sư Viên Chiếu (thế danh Mai Trực), Thiền sư Không Lộ (thế danh Nguyễn Minh Không), Ni sư Diệu Nhân (thế danh Lý Ngọc Kiều)… đều dùng đạo hiệu-pháp hiệu và không mang họ Thích.

Thời Nguyễn, các vị tổ sư, thiền sư thuộc dòng Lâm Tế, Tào Động tuy có pháp danh, pháp hiệu nhưng sử sách vẫn không ghi họ Thích mà thường ghi Tổ sư Nguyên Thiều, Thiền sư Liễu Quán, Thiền sư Chân Nguyên… Mãi đến đầu thế kỷ XX, họ Thích mới được sử dụng phổ biến. Chư vị Tăng Ni đều gắn họ Thích trước pháp danh, pháp tự, pháp hiệu của mình.

Tại các buổi lễ, khi giới thiệu Hòa thượng Thích A B, để tỏ lòng quy ngưỡng và cung kính nên thường giới thiệu là Hòa thượng thượng A hạ B, kế sau là chức vụ. Trường hợp này, họ Thích được giản lược. Các vị Thượng tọa và Đại đức thường được giới thiệu trân trọng là Thượng tọa (Đại đức) Thích C D. Tên của chư vị tôn túc được giới thiệu hầu hết là pháp hiệu.

Pháp danh (húy) do bổn sư đặt khi thế phát xuất gia. Pháp danh được đặt theo phả hệ truyền thừa của mỗi dòng phái. Người am hiểu về kệ truyền thừa của các dòng phái, khi nghe pháp danh có thể nhận ra nguồn gốc thuộc dòng phái nào, đời thứ mấy. Đến khi thọ giới Sa-di, bổn sư ban cho pháp tự. Có những vị bổn sư xuất kệ, sau đó đặt pháp tự cho từng lớp (lứa) đệ tử theo bài kệ. Nhiều vị bổn sư không xuất kệ, tùy theo lớp đệ tử mà đặt pháp tự (có chữ đầu tiên) khác với lớp sau. Thường thì pháp tự được dùng trong khoảng thời gian từ Sa-di cho đến khi thọ giới Tỳ-kheo (hoặc cho đến khi có pháp hiệu).

Sau khi thọ Cụ túc giới, chính thức trở thành Tỳ-kheo thì bổn sư ban cho pháp hiệu. Trong một vài trường hợp, pháp hiệu có thể do những vị y chỉ sư, giáo thọ sư hay chư Tăng ban tặng, hoặc cũng có thể tự xưng rồi sau đó trình lên các bậc thầy và được xác chứng. Pháp hiệu được bổn sư hoặc chư Tăng ban cho thường dựa vào công hạnh hoặc một đặc điểm nổi bật nào đó của vị Tỳ-kheo.

Từ đây về sau, pháp hiệu được chư Tăng Ni sử dụng trong đời sống thường nhật. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp vị Tăng Ni không có pháp hiệu, pháp tự hoặc tuy có pháp hiệu, pháp tự nhưng vẫn sử dụng pháp danh. Việc dùng pháp danh, pháp hiệu hay pháp tự là do chủ kiến cá nhân của mỗi vị Tăng Ni hoặc do tập quán của chư Tăng Ni ở từng khu vực, vùng miền. Đa phần thì chư tôn đức Tăng Ni dùng pháp hiệu.

Trong tang lễ hay các lễ tưởng niệm (húy nhật-giỗ) của các vị Hòa thượng, vị chủ lễ xướng: Lâm Tế chánh tông, vị này thuộc tông Lâm Tế (do Thiền sư Lâm Tế-Nghĩa Huyền [? – 866/867] khai sáng tại Trung Quốc). Tứ thập nhị thế nghĩa là đời thứ 42, tính từ Thiền sư Lâm Tế. Húy thượng A hạ B chính là pháp danh, tự C D là pháp tự, hiệu G H là pháp hiệu của Hòa thượng.

Chúc bạn tinh tấn!

Theo Báo Giác Ngộ

CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT

Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.

STK: 117 002 777 568

Ngân hàng Công thương Việt Nam

(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)

Ý kiến của bạn

Cầu an có phải là pháp của đạo Phật?

Hỏi - Đáp 15:05 22/11/2024

Hỏi: Tôi là người theo đạo Phật và muốn hiểu rõ hơn về giáo pháp. Tôi muốn hỏi là cầu an có phải là pháp của đạo Phật? Nếu có thì xin vui lòng chỉ giúp Đức Phật dạy trong những kinh nào?

Đã được truyền thọ Tam Quy và Ngũ giới, vậy có phải ăn chay không?

Hỏi - Đáp 12:55 20/11/2024

Hỏi: Tôi đã được truyền thọ Tam Quy và Năm giới, vậy tôi có phải ăn chay hay không?

Cúng vong linh, cúng cô hồn có phải là pháp của đạo Phật?

Hỏi - Đáp 10:18 19/11/2024

Tôi là người theo đạo Phật và muốn hiểu rõ hơn về giáo pháp. Tôi có câu hỏi xin quý Báo trả lời giúp: Cúng vong linh, cúng cô hồn có phải là pháp của đạo Phật? Nếu có, xin vui lòng chỉ giúp Đức Phật dạy các điều ấy trong những kinh nào?

Tượng Phật có từ bao giờ?

Hỏi - Đáp 10:31 18/11/2024

Hỏi: Tôi là một Phật tử chuyên hỷ cúng tượng Phật cho các chùa, nhưng chưa hiểu rõ lắm về nguyên nhân do đâu mà có tượng Phật. Vậy tượng Phật có từ bao giờ? Ai là người đầu tiên tạo tượng Phật? Xin cho biết sơ lược về việc tạo tượng Phật vào lúc đó.

Xem thêm