Phật tánh là khả năng hiển lộ của trí tuệ khi vọng tưởng tan biến
Trong cái nhìn của tư tưởng thông thường, giáo lý vô ngã và giáo lý Phật tánh dường như thuẫn, nếu không có một cái ta thường hằng thì cái gì là Phật tánh?
Nhưng nghịch lý ấy chỉ xuất hiện khi trí tuệ bị điều kiện bởi thói quen nhị nguyên một bên có, một bên không; một bên phủ định, một bên khẳng định; một bên hủy bỏ chủ thể, một bên như thể xác lập lại một bản thể tinh tế. Khi bước vào chiều sâu của tuệ giác Phật học, vô ngã và Phật tánh không phải hai khái niệm đối lập mà là hai mặt vận hành của một chân lý duy nhất.
Vô ngã trước hết là một phương thuốc nhằm phá bỏ gốc rễ mọi khổ đau. Thân, thọ, tâm, pháp đều duyên sinh từ vô lượng nhân duyên, biến dịch từng sát-na, không có chủ thể thường trú đứng sau điều khiển. Chấp vào ý niệm “ta”, “của ta”, “tự ngã của ta” chính là khởi nguồn của tham, sân, si.
Đức Phật nói vô ngã không phải để xây dựng một lý thuyết siêu hình, mà để người tu thấy rõ sự vận hành giả hợp của ngũ uẩn, từ đó buông bỏ chấp thủ. Vô ngã vì vậy mang tính trị liệu và giải thoát, không phải mệnh đề triết học thuần lý.
Phật tại tâm có phải là Phật tánh

Song nếu chỉ nghe vô ngã mà không hiểu ý nghĩa rốt ráo, dễ rơi vào hư vô luận: chẳng có gì, chẳng ai, chẳng mục đích, chẳng cứu cánh. Để phá sự lệch lạc ấy, các kinh Đại thừa khai triển giáo lý Phật tánh: khả năng giác ngộ vốn có nơi mọi loài. Nhưng Phật tánh không phải bản thể thường hằng, không phải linh hồn tinh tế, càng không phải một cái ngã được mạ vàng bằng ngôn từ thánh thiện.
Phật tánh chỉ là tên gọi tạm cho năng lực giác tức ánh sáng trong trẻo khi mọi cấu uế chấp ngã buông rơi. Gương tự sáng, nhưng khi bụi phủ thì tưởng như mất ánh sáng. Lau bụi đi không phải để đặt vào gương một bản thể mới, mà để lộ ra điều vốn sẵn.
Như vậy, vô ngã là phá bỏ vọng tưởng về cái ta; Phật tánh là khả năng hiển lộ của trí tuệ khi vọng tưởng tan biến. Hai khái niệm này tương tức, tương nhập. Không thể có nhận thức về Phật tánh nếu ngã chấp còn nguyên. Không thể sống rốt ráo vô ngã nếu không thấy tánh giác vô biên của tâm.
Chính vì chưa thấu duyên khởi nên người học mới đặt câu hỏi “ai giác ngộ nếu không có ta?”. Câu hỏi ấy đã hàm chứa tà kiến về một chủ thể thường trụ. Giác ngộ sinh khi đủ duyên, như lửa bùng khi củi khô, gió thổi, mồi bắt; không thể tìm một thực thể lửa thường hằng nằm sẵn trong củi, nhưng không vì thế mà phủ nhận khả năng lửa hiện khởi.
Vô ngã phá chấp, Phật tánh khơi mở khả năng giác. Một bên phủ định sự bám víu; một bên khẳng định khả tính giải thoát. Khi thấy duyên khởi vận hành, hai cách nói ấy hợp nhất trong cái thấy bất nhị. Không còn mâu thuẫn giữa có và không, giữa chủ thể và giác ngộ. Cũng như mặt trời không sinh từ mây, nhưng khi mây tan thì ánh sáng tự hiển. Chấp mây hay chấp mặt trời đều rơi vào sai lầm; chỉ cần nhận ra bản chất vận hành.
Vô ngã chính là Phật tánh được thể nghiệm; Phật tánh chính là vô ngã hiển lộ. Khi chỉ còn hiện tiền tịch tĩnh và sáng trong đó là chân lý vô ngã, và cũng chính là Phật tánh.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Phật tánh là khả năng hiển lộ của trí tuệ khi vọng tưởng tan biến
Phật giáo thường thứcTrong cái nhìn của tư tưởng thông thường, giáo lý vô ngã và giáo lý Phật tánh dường như thuẫn, nếu không có một cái ta thường hằng thì cái gì là Phật tánh?
Tại sao ta phải cần đến Thiền sư?
Phật giáo thường thứcTrên lý thuyết tổng quát thì hành giả nào cũng có thể tự đọc kinh sách hay tìm đến lắng nghe, vấn đạo với các thầy bạn. Nhưng trong kinh nghiệm tu chứng thì hành giả Tuệ Quán, đặc biệt là người sơ cơ, phải luôn cần đến sự hỗ trợ của thiền sư trong nhiều trường hợp:
Tinh thần bất an từ đâu?
Phật giáo thường thứcChúng ta đang sống trong thời đại hỗn loạn, căng thẳng và vội vàng, làm cho tinh thần con người luôn bất an; cho nên hiểu được và làm thế nào để kiểm soát tinh thần bất an là điều rất quan trọng.
Hiểu vận mệnh để mở ra cánh cửa nhìn sâu vào duyên nghiệp
Phật giáo thường thứcCon người không sợ những biến cố, điều ta thực sự sợ là sự bất lực trước biến cố. Khi không biết mình đang đứng ở đâu trong dòng nhân quả, ta dễ vội vàng gán nhãn mọi điều là may rủi, là số phận bất công, là nghiệt ngã của tạo hóa.
Xem thêm














