Quả báo của ác nghiệp quá khứ
Khi biết được lý nhân quả nghiệp báo luôn đeo đuổi ta như bóng với hình, mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu người phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai lầm, mà sai một li là đi xa ngàn dặm, không biết sẽ về đâu.
Điều tâm chuyển nghiệp ác - hướng tâm thiện trong giây phút lâm chung từ Kinh tạng Pali
Một gia đình nọ sống trong làng đánh cá, một bà mẹ có thai và cả làng làm ăn sa sút, nhiều chuyến ra khơi không đánh bắt được cá tôm gì, nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn, đói kém. Trước tình hình như vậy, các bô lão trong làng mới họp lại với nhau để bàn bạc, tìm xem nguyên nhân vì sao dân làng gặp vận hạn như thế.
Một số người cho rằng, do bà mẹ kia đã lớn tuổi mà lại mang thai là điều quái dị, không hợp luật trời, vì thế dân làng mới chịu cảnh làm ăn thất bát, khó khăn. Một số người khác không nhất trí với ý kiến ấy, cuối cùng làng chia ra làm hai nhóm ra khơi, đánh bắt riêng biệt.
Trong nhiều chuyến ra khơi, nhóm người không tin việc bà mẹ già mang thai, thường xuyên bị nạn, không đánh bắt được cá; nhóm người tin việc ấy thì chuyến nào cũng đánh bắt đầy thuyền. Điều này khiến cả làng tin rằng, bà mẹ mang thai kia chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt, khó khăn của làng. Cuối cùng, cả làng quyết định đuổi bà ấy khỏi làng, không cần biết sự sống của bà sẽ ra sao.
Vì người mà tạo nghiệp ác chính mình phải chịu tội
Bà ra đi trong tình cảnh vô cùng bi đát, không có thứ gì mang theo, lại đang lúc bụng mang dạ chửa, bà lang thang đó đây, vất vả xin ăn sống qua ngày. Lúc ở nhà còn có chồng chăm lo, nhà cửa đàng hoàng, giờ đây với thân phận một người ăn mày không nhà, không cửa, sống bờ ngủ bụi, nhiều khi vì quá mệt, không xin được chút gì, bị đói khát, bà muốn phá đi cái thai trong bụng để tìm sự thảnh thơi cho riêng mình. Nhưng vì cái thai là sự đầu thai của một vị sẽ chứng A La Hán trong kiếp này, nên thai nhi có khả năng chuyển tâm, làm cho bà mẹ không đủ can đảm huỷ hoại cái bào thai ấy.
Thời gian trôi qua, đứa con của bà cũng được ra đời với bao khó khăn chồng chất. Trong những ngày sinh con, bà phải một thân, một mình tự lo mọi thứ, khổ sở tột cùng, bà vẫn cắn răng chịu đựng. Sinh con được mấy ngày, vừa khoẻ được một chút, bà lại phải ẵm con, tiếp tục cuộc hành trình với thân phận ăn mày, rày đây mai đó, để kiếm chút cơm thừa, canh cặn.
Từ đây, trong cuộc mưu sinh, bà lại có thêm đứa bé bên mình. Hai mẹ con cùng nhau lang thang hết làng này sang xóm nọ, rong ruổi khắp mọi nẻo đường, nhưng vẫn không đủ sống, phải đói khát, vật vờ. Ngày qua ngày, bữa đói, bữa no, áo quần rách rưới, thật chẳng giống ai, nhiều lúc đói lả tưởng chừng không sao sống nổi.
Vậy mà bà vẫn sống để nuôi đứa bé ốm o, gầy mòn. Bà lang thang xin ăn lây lất sống qua ngày, cho đến năm chú bé khoảng ba bốn tuổi. Một hôm, hai mẹ con vào một gia đình giàu có xin ăn, vì thương con phải chịu cảnh ăn mày, thiếu thốn, đói khát thường xuyên, bà bỏ lại đứa con trong vườn của người nhà giàu ấy, rồi trốn đi biệt tăm biệt tích, với hy vọng con mình sẽ được người nhà ấy nuôi nấng tử tế, đàng hoàng.
Bà nghĩ rằng, làm như vậy là để người giàu thương tâm mà nuôi đứa bé. Dù từ bỏ đứa con thân yêu, lòng bà xót xa, đau đớn như đứt từng khúc ruột, lúc nào nước mắt cũng tuôn tràn, quên ăn, bỏ ngủ, nhưng bà hy vọng con mình không khổ như kiếp ăn mày lâu nay.
Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như vậy, bởi vì nghiệp báo đâu cho phép mình muốn là được. Từ khi người mẹ bỏ đi, đứa bé càng khốn khổ hơn, một mình nó tự xin ăn, có lúc phải lượm từng chút cơm thừa, canh cặn người ta vứt đi để sống qua ngày. Nơi đầu đường xó chợ, người ta thường thấy một đứa bé gầy còm, ốm yếu, đen đúa, lem luốc, ngồi co ro thật tội nghiệp.
Một hôm, Ngài Xá Lợi Phất trên đường đi du hoá, thấy một chú bé khoảng chín mười tuổi, thân hình gầy còm, đen đúa, nằm co quắp bên vệ đường. Động lòng thương xót, Ngài đến bên hỏi rõ nguyên nhân mới biết được hoàn cảnh bi đát của chú bé. Sau đó, Ngài mới nói một bài pháp về nhân quả nghiệp báo cho chú bé nghe, rồi Ngài bảo rằng: “Con có muốn xuất gia theo thầy không?”
Đứa bé than: “Con là đứa ăn mày, một thân, một mình không nơi nương tựa, không cha mẹ, không bà con, họ hàng thân tộc, con thuộc giai cấp hạ tiện, làm sao con có thể xuất gia theo Ngài.”
Thời bấy giờ, việc xuất gia chỉ dành riêng cho giai cấp tôn quý. Nghe vậy, Ngài Xá Lợi Phất mới giải thích, trong giáo pháp của Phật Đà không có phân biệt giai cấp cao quý hay hạ tiện. Ai muốn sống đời giải thoát thì phát tâm gia nhập vào Tăng đoàn. Chú bé vui mừng chấp nhận và được Ngài Xá Lợi Phất đưa về Tăng đoàn. Nơi đây, chú bé lớn khôn, trưởng thành trong môi trường phạm hạnh đầy trí tuệ. Do tu hành tinh chuyên, chú được thọ giới đầy đủ, không bao lâu sau đã trở thành một vị tỳ kheo nổi tiếng phạm hạnh, và chứng quả A La Hán.
Câu chuyện trên đã cho chúng ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp trong quá khứ và hiện tại, không phải đơn giản như nhiều người hiểu lầm chết là hết, mà chúng ta sẽ phải trả một giá rất đắt nếu đã gây tạo nghiệp xấu ác.
Trên đời này, không có việc gì là không có nguyên nhân sâu xa của nó. Trong nhiều kiếp quá khứ, tiền thân của chú bé là người có tâm tật đố, ghen tỵ, đã ngăn cản nhiều cư sĩ cúng dường một vị Bích Chi Phật, và còn vu oan, xúi bảo người khác không cúng dường. Do tiền kiếp đã gieo những nhân xấu như vậy, nên đời này sinh ra phải làm một chú bé ăn xin nghèo hèn, thiếu thốn đầu đường xó chợ, không chỉ có thân mình chịu quả báo khổ đau mà người sinh ra cậu cũng cùng chung nghiệp ấy.
Khi biết được lý nhân quả nghiệp báo luôn đeo đuổi ta như bóng với hình, mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu người Phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai lầm, mà sai một li là đi xa ngàn dặm, không biết sẽ về đâu.
Vì vậy, chúng tôi mong quý Phật tử là người hiểu Phật pháp, biết tu hành theo lời Phật dạy. Nếu chúng ta không có khả năng bố thí, cúng dường, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khó, thì khi thấy người khác bố thí, cúng dường, làm điều phước thiện, chúng ta phải phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm tốt đó, thì mình cũng có phước đức không khác gì người bỏ tiền ra giúp đỡ.
Đức Phật thường dạy: “Người phát tâm bố thí, giúp đỡ, sẻ chia, và người tuỳ hỷ với việc bố thí ấy, có phước báu ngang bằng nhau”. Vì sao? Vì người bố thí cúng dường thì được phước báo hiện tại và mai sau không nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn; còn ta thấy người khác bố thí, cúng dường, mà phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm ấy, sẽ không bị quả báo tật đố, ganh ghét. Người có tâm tật đố, ganh ghét dễ dẫn đến hận thù, làm những việc xấu ác; còn người xúi bảo người khác làm việc xấu ác, thì quả báo lại càng nặng nề hơn.
Như trường hợp của dân làng đánh cá trong câu chuyện trên, cái đói khổ là do cộng nghiệp xấu. Khi đứa bé mới đầu thai vào bà mẹ, nghiệp nhân đã chiêu cảm những quả xấu, nên cả làng bị thiếu thốn, đói khát, dẫn đến việc bà mẹ bị đuổi ra khỏi làng, người con phải thọ quả ăn mày từ trong bụng mẹ mãi đến khi chín, mười tuổi. Thật là khủng khiếp! Đó cũng chỉ vì tuỳ hỷ hay xúi bảo với việc làm xấu ác mà ra.
Do đó, khi học về giáo lý nghiệp báo, chúng ta nên cẩn thận với mọi hành vi từ thân-miệng-ý, mình chỉ tán thán và tuỳ hỷ khi thấy người khác làm việc phước thiện mà thôi; còn khi thấy ai làm việc bất thiện, mình nên tìm cách khuyên can, cả hai việc ấy đều mang lại lợi ích trong hiện tại và mai sau.
Đối với khẩu nghiệp, chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong lời nói. Ta nên nói những lời có lợi cho mình và cho người, còn những lời nói mình cảm thấy có hại cho bản thân hay cho người thì phải dè dặt. Muốn được như vậy, chúng ta phải biết cách tu hành từ ý nghĩ khi chưa phát sinh ra lời nói. Ta nghĩ và nói theo lời Phật dạy, biết tận dụng, tranh thủ thời gian quán chiếu, suy xét, cho đến khi nào mình cảm thấy lời nói không có hại cho ai thì mình mới nói.
Cúng dường cơm cháy chuyển nghiệp đọa địa ngục thành sinh thiên
Ai tu được như vậy, sẽ từng bước chuyển hóa được nghiệp xấu ác huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp, không còn nghi ngờ gì nữa, nhà Phật gọi đó là niềm tin bất thoái chuyển. Người có niềm tin như thế sẽ càng ngày càng sống tốt hơn, nhờ trí tuệ khai phát, do đó luôn sống vì tha nhân nhiều hơn.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật đã nói: “Phàm cái gì có tướng đều hư (giả) vọng”. Hư vọng có nghĩa là không phải không có, mà là giả có (không thật có).
Thân của chúng ta có phải thật là ta hay không? Nếu thân này là thật, tại sao ai cũng sinh-già-bệnh-chết? Cái gì thật thì trước sau như một, không biến đổi, trước như thế nào thì sau như thế đó, dù trải qua thời gian vô cùng tận cũng không thay đổi. Còn thân người luôn bị già-bệnh-chết chi phối, thì làm sao nó là thật được. Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta. Từ chỗ chấp thân này là thật, nên mới sinh ra chuyện vợ chồng luôn tranh cãi, bất hòa với nhau, dẫn đến ly dị, ly hôn, do không biết nhường nhịn lẫn nhau. Những điều bất hạnh ấy đến với mình cũng chỉ vì mình không hiểu biết, thiếu tu hành mà thôi.
Do nghiệp xấu gieo tạo từ trước, nên khi sinh ra trong đời này, cậu bé phải chịu quả báo làm một đứa trẻ lang thang, ăn mày đầu đường xó chợ, bữa đói bữa no, chín mười năm trời. Tuy đã vào Tăng đoàn, được xuất gia tu hành, nhưng vẫn phải chịu nghiệp quả của sự thiếu thốn. Trong lúc đi khất thực hàng ngày, cứ hễ đến lượt Ngài thì hết thức ăn, hoặc người cúng dường muốn dân vật thực cho Ngài thì lại thấy trong bình bát của ngài đầy ấp thức ăn, nên lại thôi, không sớt bát nữa.
Bởi do ác nghiệp gieo tạo trong quá khứ, nay khiến Ngài phải trả quả báo như vậy. Cho nên, trong suốt thời gian tu hành trong Tăng đoàn, cùng đi khất thực với quý thầy, ấy thế mà Ngài chưa bao giờ có một lần no đủ, mặc dù ngài đã chứng quả A La Hán.
Thương tình vị đệ tử của mình suốt cuộc đời không một bữa ăn no, Ngài Xá Lợi Phất khất thực được một bát cơm thịnh soạn, bèn để Ngài dùng trước lúc nhập diệt; nhưng khi Ngài vừa dùng xong, tất cả thức ăn đều bị ói ra hết. Quý vị đã thấy rõ sức mạnh của nghiệp ác chiêu cảm thế nào chưa, ngay đến cả bữa ăn cuối cùng trong đời Ngài cũng không thể thọ nhận, dú đã chứng A La Hán quả.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng, hễ gieo tạo nghiệp gì thì phải thọ lãnh nghiệp quả nấy, không sai một li nào, không trốn tránh vào đâu được, cho dù đó là nghiệp riêng hay nghiệp chung.
Vì vậy, người phật tử chân chính phải hết sức cẩn trọng giữ gìn các hành vi của thân-miệng-ý cho chu đáo, khi đã lỡ gây tạo nghiệp bất thiện rồi thì trăm kiếp, ngàn đời, quả báo ấy cũng không hề mai một, mà chỉ nằm yên chờ đến lúc hội đủ nhân duyên thì sẽ trổ ra. Lúc ấy, ta không kêu cứu ai được, mà cũng không ai có thể cứu ta được. Chỉ có người hiểu rõ đạo lý nhân quả, nghiệp báo, biết tu hành, thì mới chấp nhận mà không phàn nàn, không than van hay oán trách một ai.
Cội gốc của luân hồi sinh tử là tình ái
Còn đối với những bậc tu hành đã vượt qua được vòng luân hồi sinh tử, khi những quả xấu trổ ra, các ngài không hề sợ sệt, không hề oán than; có khi các ngài còn khởi tâm vui vẻ vì được trả quả trong kiếp này. Những vị cao Tăng, những bậc tu hành chân chính luôn giữ tâm an trú nơi tính biết sáng suốt của mình, không còn dấy niệm về buồn, thương, giận, ghét, nên các ngài lúc nào cũng an nhiên, tự tại.
Do đó, người Phật tử chân chính phải nên thường xuyên quán chiếu, soi sáng lại chính mình, đừng chờ đến lúc quả xấu trổ ra, rồi mới ngồi đó mà than thân, trách phận. Bồ tát nhờ ý thức được quả khổ đau, nên đã kịp thời ngăn ngừa từ nhân, còn chúng ta chờ kết quả xấu đến thì làm sao trở tay cho kịp.
Bởi thế, phàm phu khi trả quả thì than thân, trách phận, oán trời, trách đất, đổ thừa đủ thứ, rồi sinh ra hận thù, tìm cách trả đũa; do vậy, nhân quả vay trả, trả vay không có ngày cùng. Muốn dừng được nhân bất thiện, chúng ta phải thường xuyên nghiền ngẫm lời Phật dạy, để biết được nhân nào dẫn đến sa đoạ, khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc, nhân nào được giác ngộ, giải thoát, để mình lựa chọn mà tu theo tâm nguyện của mình; đừng để nước tới chân mới nhảy thì làm sao kịp, hay chờ khát nước rồi mới đào giếng thì đã quá muộn màng.
Người học Phật phải biết phòng ngừa quả xấu từ nhân. Muốn được như vậy, trước nhất ta phải tin sâu Tam Bảo, cố gắng thực hành lời Phật dạy. Phật nay đã nhập diệt hơn 26 thế kỷ, nhưng giáo pháp của Ngài vẫn còn đang lưu truyền nhờ chư tăng, ni. Nếu không có chư tăng, ni hoằng truyền rộng rãi thì làm sao ta biết được điều hay dở, tốt xấu, đúng sai trong cuộc đời, để mình tu sửa, để khỏi chìm đắm, trôi lăn trong vòng sinh tử, luân hồi.
Tin sâu Tam Bảo là tin sâu vào lời dạy chân chính của Phật, không phải thần tượng vào vị thầy nào, vì thần tượng thì dễ bị sụp đổ. Điều đó dễ dẫn ta đến cống cao ngã mạn, chỉ thấy có thầy mình là tốt, là đúng, là hay, còn các vị khác đều sai, đều xấu. Đây là tai hoạ từ bệnh thần tượng cá nhân gây nên, bởi chư vị tăng, ni đang tu hành cũng là người bình thường, nên không sao tránh khỏi những khuyết điểm.
Biết được như vậy, chúng ta dễ dàng cảm thông cho những sai sót của quý tăng, ni, hay các bạn đồng tu với nhau. Khi xét thấy chư tăng, ni nào đầy đủ đức hạnh thì chúng ta cố gắng học theo; còn chư vị tăng, ni nào chưa trọn vẹn, nhiều khiếm khuyết, thì chúng ta cũng nên lấy đó làm bài học, để không vấp phải lỗi lầm. Đó là điều người phật tử cần phải nên biết, để tránh việc khen mình, chê người, chỉ gây đau khổ cho nhau mà thôi.
Đối với người phật tử, việc tích luỹ nghiệp rất là quan trọng, bởi chúng ta sinh ra trong đời là đã mang theo nghiệp tốt xấu lẫn lộn của nhiều đời trước. Bên cạnh tích luỹ nghiệp của quá khứ, việc tái sinh còn do lực tác động của cận tử nghiệp, cũng rất quan trọng. Cận tử nghiệp là nghiệp được tạo tác lúc sắp chết. Tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có liên quan mật thiết với nhau, nó kết thành yếu tố quyết định đưa thần thức người chết tái sinh về cõi lành hay cõi dữ.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Sát na là gì? Sát na được tính như thế nào?
Kiến thức 17:08 24/11/2024Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói với chúng ta, thời gian tồn tại của tất cả hiện tượng này là “khoảng sát na”. Trên “Kinh Nhân Vương” nói với chúng ta, một khảy móng tay có 60 sát na, một sát na có 900 lần sanh diệt.
Giải thích các cõi trong lục đạo
Kiến thức 16:00 24/11/2024Ðức Phật đã bảo thế-giới của chúng ta đang ở có ngũ thú là: Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ, Bàng-sanh, Nhơn và Thiên. Các loài hữu-tình do tạo nghiệp lành nên được sanh về thiện thú, và bởi gây nhân dữ nên bị đọa vào ác đạo. Nhân duyên ấy như thế nào?
Sự cúng dường ý nghĩa nhất là gì?
Kiến thức 15:37 24/11/2024Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt. Trong nhà Phật thường nói: “Muôn việc bỏ lại đời, chỉ có nghiệp theo thân”.
Tứ ân là gì?
Kiến thức 14:50 24/11/2024Tứ ân hay Tứ trọng ân là một trong những giáo lý quan trọng của Phật giáo. Người Phật tử, vâng lời Phật dạy, luôn nêu cao tinh thần tri ân và báo ân trong đời sống tu tập hàng ngày.
Xem thêm