Quán thọ trên các cảm xúc
Quán thọ trên các cảm thọ là một trong số các pháp môn quán niệm được nói đến trong kinh Niệm xứ thuộc Kinh tạng Pàli Nikàya, nêu rõ cách thực nghiệm tâm giải thoát, tuệ giải thoát thông qua phương pháp chú tâm nhận biết và thức tỉnh về các cảm thọ khởi lên trong đời sống hàng ngày.
Thọ (vedanà) là các cảm giác mà con người cảm nhận trong đời sống thường nhật. Nó là một trong năm thành phần căn bản tạo nên con người gọi là ngũ uẩn (pancakkhandhà), gồm có sắc uẩn (rùpa-khandha), thọ uẩn (vedanà-khandha), tưởng uẩn (sannà-khandha), hành uẩn (sankhàra-khandha) và thức uẩn (vinnàna-khandha), đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Nói con người sống tức là nói con người cảm nhận thế này thế khác trong quá trình hiện hữu. Không có cảm giác thì cuộc sống xem như tê liệt, không còn sức sống. Chính cảm giác khiến con người hiện rõ sức sống, thể hiện ý thức, biểu lộ ý chí trong đời sống hàng ngày. Kinh Phật nói rằng để có được các cảm giác khoái lạc (lạc thọ thuộc vật chất) mà con người phải ngày đêm lao tâm khổ tứ, tổn hao năng lực làm việc vất vả, đôi khi rơi vào tranh chấp xâu xé lẫn nhau, thậm chí đi đến xâm lăng cướp bóc và tàn hại lẫn nhau (1).
Trong sự phân tích của đạo Phật về danh sắc (nàmarùpa) hay ngũ uẩn (pancakkhandhà) thì cảm thọ thuộc tâm hành, là hiện tượng duyên sinh, hiện hữu do duyên sự tiếp xúc giữa các căn bên trong (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và các trần cảnh bên ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), gọi là sáu thọ thân, gồm có: 1. thọ do nhãn xúc sanh, 2. thọ do nhĩ xúc sanh, 3. thọ do tỷ xúc sanh, 4. thọ do thiệt xúc sanh, 5. thọ do thân xúc sanh, 6. thọ do ý xúc sanh.

Cảm thọ phát sinh trong mỗi loại xúc chạm như vậy đều thể hiện qua ba trạng thái: lạc (vui), khổ (buồn) hay bất khổ bất lạc (không vui không buồn). Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần khả lạc, khả ái, khả hỷ, khả ý, gọi là lạc xúc, thì bấy giờ lạc thọ phát sinh. Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần không khả lạc, không khả ái, không khả hỷ, không khả ý, gọi là khổ xúc, thì bấy giờ khổ thọ phát sinh. Nếu sự tiếp xúc thuộc trung tính, không khổ không lạc, gọi là bất khổ bất lạc xúc, thì khi ấy bất khổ bất lạc thọ sinh khởi.
Như vậy, do duyên xúc chạm hàng ngày giữa sáu căn và sáu trần mà cảm thọ phát sinh, có chức năng bảo dưỡng sự sống của con người, khiến cho con người (ngũ uẩn) tồn tại, thể hiện sức sống, biểu hiện ý chí trong quá trình hiện hữu. Cảm thọ là phần phản ứng bén nhạy của đời sống con người. Nhờ có cảm giác mách bảo mà con người biết được lúc nào cần ăn, lúc nào cần mặc, lúc nào cần thao tác, lúc nào cần nghỉ ngơi. Có thể nói, quá trình hiện hữu của con người trên cuộc đời không gì khác là quá trình làm việc với cảm thọ, nghĩa là nỗ lực nhiếp phục khổ thọ (khổ đau) và nỗ lực tìm kiếm lạc thọ (hạnh phúc). Tương tự, nói rằng ý chí của con người thể hiện trong cuộc đời cũng không gì khác chính là thể hiện sự quyết tâm hạn chế khổ thọ (khổ đau) và đạt cho được lạc thọ (hạnh phúc) vậy.
Cảm thọ đóng vai trò quan trọng như thế trong đời sống con người, nhưng chúng chỉ là các hiện tượng do nhân duyên mà có mặt, chuyển biến và sanh diệt liên tục, không thường hằng, không tồn tại mãi, con người không nắm bắt được, không làm chủ được. Chúng tạo cảm giác thoải mái (hạnh phúc) hay khó chịu (khổ đau) cho con người nhưng chúng không phải của con người. Chúng chỉ là các cảm giác phát sinh do nhân duyên xúc chạm mà con người không làm chủ được. Rõ là ai cũng mong muốn hạnh phúc (lạc thọ), nhưng chẳng ai tránh khỏi khổ đau (khổ thọ) trong cuộc đời. Đó là bởi hạnh phúc và khổ đau chỉ là các cảm giác đối lập liên tục đi qua đời người, giống như ngày và đêm liên tiếp đi qua cuộc đời vậy. Lạc thọ đến thì khổ thọ biến mất; lạc thọ đi thì khổ thọ xuất hiện. Còn mang thân ngũ uẩn thì còn khổ đau (khổ thọ), và vì vậy còn khao khát hạnh phúc (lạc thọ). Xem ra, cái vòng lạc-khổ luẩn quẩn thuộc thế giới ngũ uẩn đầy phiền muộn ấy chẳng có gì mới lạ và hấp dẫn, ấy thế mà chẳng mấy ai có đủ thức tỉnh để thoát ra. Bậc Giác ngộ tuyên bố: “Thế giới (cuộc đời) là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham dục (lạc thọ)” (2).
Thánh giả Sàriputta gợi nhắc cho một Tỳ-kheo mắc phải chứng nan y: “Này Hiền giả, nếu nói về vấn đề năm thủ uẩn (con người), thời toàn bộ khổ uẩn (toàn bộ hiện hữu) là một vấn đề cảm thọ. Và khi không có năm uẩn, thời không có đau khổ” (3).
Đức Phật, bậc đã chứng ngộ bản chất vô thường sanh diệt của các cảm thọ, đã vượt qua mọi hệ lụy của lạc thọ và khổ thọ thuộc thế giới ngũ uẩn biến hoại, nói như vầy:
“Hoan hỷ chỉ có đến,Với người tâm sầu muộn (Người bị khổ thọ chi phối). Sầu muộn chỉ có đến,Với người tâm hoan hỷ (Người bị lạc thọ chi phối” (4).
Do chứng ngộ bản chất chuyển biến sanh diệt của cảm thọ, bậc Giác ngộ khuyên mọi người tập trung nhận diện cho thật đúng về cảm thọ, tập chế ngự các cảm xúc và trên hết học cách buông xả các cảm thọ để thực nghiệm đời sống giải thoát an lạc.
Theo lời Phật thì người thiếu hiểu biết và không tu tập về cảm thọ, kinh văn gọi là kẻ vô văn phàm phu, sẽ không tránh khỏi phiền muộn khổ đau trong đời sống xúc chạm hàng ngày. Trái lại, kẻ có hiểu biết và có tu tập về cảm thọ, gọi là vị đa văn Thánh đệ tử, thì có khả năng thể hiện lối sống thanh thản an lạc, thoát khỏi mọi phiền muộn khổ đau giữa cuộc đời.
Bậc Giác ngộ phân biệt rõ ràng như vầy:
“Ở đây, này Aggivessana, kẻ vô văn phàm phu khởi lên lạc thọ. Người này được cảm giác lạc thọ, liền tham đắm lạc thọ và rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ. Người ấy, do cảm giác khổ thọ nên sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh. Này Aggivessana, lạc thọ ấy khởi lên cho người kia, chi phối tâm và an trú, do thân không tu tập. Khổ thọ ấy khởi lên khởi lên cho người kia, chi phối tâm và an trú, do tâm không tu tập...
Như ng ở đây, này Aggivessana, lạc thọ khởi lên cho vị Thánh đệ tử nghe nhiều. Vị này được cảm giác lạc thọ, nhưng không tham đắm lạc thọ, không rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ, vị ấy cảm giác khổ thọ nhưng không sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh. Này Aggivessana, lạc thọ ấy khởi lên cho vị kia, không chi phối tâm và không an trú, do thân có tu tập; khổ thọ ấy khởi lên cho vị kia, không chi phối tâm và không an trú, do tâm có tu tập” (5).
Kẻ vô văn phàm phu là người có thân không tu tập và tâm không tu tập, bị các cảm thọ lạc và khổ chi phối, thường xuyên rơi vào sầu muộn, than van, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh, vì không biết rõ bản chất vô thường của các cảm thọ, không học cách chế ngự các cảm thọ, không buông bỏ được cảm thọ.
Trái lại, vị đa văn Thánh đệ đử có thân tu tập và có tâm tu tập, nghĩa là có chú tâm nhận biết về tính chất duyên sinh vô thường của các cảm thọ, có tập cách chế ngự các cảm xúc, có thực hành phương pháp buông xả cảm thọ, nên không bị các cảm thọ chi phối, không mê say tham đắm khi có được lạc thọ, không rơi vào sầu muộn, than van, khóc lóc, đấm ngực khi gặp phải khổ thọ, thể hiện nếp sống giải thoát thanh thản trong đời sống xúc chạm hàng ngày. Vị ấy được mô tả như vầy:
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn,
Là điềm lành (hạnh phúc) tối thượng (6).
Tâm không động, không sầu, không uế nhiễm, an ổn khi xúc chạm việc đời là bởi vị đa văn Thánh đệ tử có thân tu tập và có tâm tu tập. Tu tập như thế nào?
Đó là:
“Khi thấy sắc bằng mắt, vị ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không ghét bỏ đối với sắc xấu. Vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Khi nghe tiếng bằng tai... Khi ngửi hương bằng mũi... Khi nếm vị bằng lưỡi... Khi cảm xúc bằng thân... Khi nhận thức pháp bằng ý, vị ấy không tham ái đối với pháp tốt, không ghét bỏ đối với pháp xấu. Vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này” (7).
Nói cách khác, sở dĩ vị Thánh đệ tử thoát khỏi mọi lo âu, sầu muộn, thoát khỏi già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, ấy là do vị ấy có tu tập Giới-Định-Tuệ, có hành trì Bát Thánh đạo, có thực hành Niệm xứ. Cụ thể là có tu tập quán niệm về cảm thọ, thấy biết như thật về các cảm thọ, tức thấy rõ lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ đều do nhân duyên mà có mặt, là pháp hữu vi, vô thường, chịu sự biến hoại, thuộc khổ uẩn, không phải của mình. Thấy như vậy rồi thì sinh tâm nhàm chán buông bỏ, ly tham, không chấp trước các cảm thọ. Vị ấy cảm nhận lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ phát sinh trong đời sống xúc chạm hàng ngày nhưng sống với tâm không tham đắm, không chấp thủ các cảm thọ:
“Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết lạc thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly (visamyutto)” (8).
Như vậy, nhờ thường xuyên quán sát và thức tỉnh về cảm thọ, vị Thánh đệ tử thấy biết như thật về các cảm thọ; vị ấy cảm thức rõ sự có mặt của từng loại cảm thọ, nhận thức rõ tính chất thay đổi và biến diệt của các cảm thọ, thấy rõ vị ngọt và sự nguy hiểm của các cảm thọ, nhờ đó vị ấy không có hân hoan, thích thú, đắm trước các cảm thọ; tâm vị ấy thoát ly mọi hệ lụy của cảm thọ, hướng đến thoát ly sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, chấm dứt hoàn toàn mọi hệ lụy khổ đau, như lời Đức Phật dạy:
“Này Aggivessana, có ba thọ này; lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Này Aggivessana, trong khi cảm giác lạc thọ, chính khi ấy không cảm giác khổ thọ, không cảm giác bất khổ bất lạc thọ, chỉ cảm giác lạc thọ. Này Aggivessana, trong khi cảm giác khổ thọ, chính khi ấy không cảm giác lạc thọ, không cảm giác bất khổ bất lạc thọ, chỉ cảm giác khổ thọ. Này Aggivessana, trong khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, chính khi ấy không cảm giác lạc thọ, không cảm giác khổ thọ, chỉ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Này Aggivessana, lạc thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Này Aggivessana, khổ thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Này Aggivessana, bất khổ bất lạc thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Thấy vậy, này Aggivessana, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly lạc thọ, yếm ly khổ thọ, yếm ly bất khổ bất lạc thọ. Do yếm ly, vị ấy không có tham dục. Do không tham dục, vị ấy được giải thoát. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: ‘Ta đã giải thoát’. Vị ấy biết: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm. Sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa’” (9).
Nhìn chung, nhận thức đầy đủ về cảm thọ qua kinh nghiệm tu chứng của Đức Phật được lưu lại trong các giáo huấn của Ngài là điều kiện giúp cho chúng ta biết cách sống đúng với cảm thọ để thực hiện tâm giải thoát an lạc trong đời sống hàng ngày. Thông thường, phần lớn chúng ta quen sống đồng hóa mình với các cảm xúc, quay cuồng trong các cảm xúc, ít có sự thức tỉnh để thoát khỏi sự chi phối của lạc thọ và khổ thọ. Tâm của chúng ta thường xuyên rơi vào mê say, chìm đắm trong các cảm giác đối lập, hoặc vui-buồn, hoặc sướng-khổ, hoặc thương-ghét, phát sinh bởi các ý niệm phân biệt có-không, được-mất, thành- bại. Cảm thọ do đó trở thành nguồn sống thiết thân đối với chúng ta, một nguồn sống luôn luôn quay cuồng và bấn loạn giữa các cảm xúc bởi sự biến diệt nhanh chóng của các cảm thọ. Chúng ta cứ khao khát tìm kiếm hạnh phúc (lạc thọ) bởi chúng ta thường xuyên bị khổ đau (khổ thọ) chi phối. Do thiếu hiểu biết về thực tại chuyển biến vô thường của các cảm thọ, chúng ta cứ khao khát tìm cầu lạc thọ và bị thế giới sanh diệt biến đổi của cảm thọ làm cho quay cuồng và mệt mỏi. Chúng ta càng khao khát tìm kiếm hạnh phúc thì hạnh phúc càng mong manh và rời xa chúng ta. Đời sống của chúng ta không gì khác một quá trình rượt đuổi hạnh phúc.
Quán thọ trên các cảm thọ là bài thực tập giúp cho chúng ta biết cách sống đúng với cảm thọ, sống sáng suốt tỉnh táo giữa các cảm thọ, sống giải thoát an lạc trong các cảm thọ, thực chứng tâm giải thoát, tuệ giải thoát qua thực tại chuyển biến sanh diệt của các cảm thọ. Bậc Giác ngộ dạy cách thực hành:
“Này các Tỳ-kheo, ở đây Tỳ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác lạc thọ’; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác khổ thọ’; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ’. Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất’; hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất’. Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất’; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất’. Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất’; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: ‘Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất’.
Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. ‘Có thọ đây’, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỳ-kheo, như vậy Tỳ-kheo sống quán thọ trên các thọ” (10).
Ngoài sự giác tỉnh ghi nhận đúng các cảm thọ đến và di, sanh và diệt, không có việc gì phải làm thêm trong phương pháp quán niệm cảm thọ. Các cảm thọ thuộc vật chất (phát sinh do duyên năm dục trưởng dưỡng) hay thuộc tinh thần (phát sinh do thiền định) sinh khởi và biến diệt như thế nào thì ghi nhận như thế ấy, không khởi niệm nghĩ suy phân biệt hay phán xét, không thuận ứng hay nghịch ứng, không vui buồn, không yêu ghét. Đây là cách an trú tâm, giải thoát tâm khỏi các tập quán mê lầm tạo ra phiền não khổ đau, tức sự giải thoát tâm khỏi tham- sân-si sinh khởi do duyên các cảm thọ. Kinh Niệm xứ định danh sự thực hành như vậy là phương pháp nhiếp phục tham ưu (abhijjhà domanassa) hay tham-sân-si ở đời, là “sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời”, tức sống với tâm ly tham, giải thoát, bặt dứt mọi ý niệm khao khát tầm cầu, gọi là “sự tịnh chỉ tất cả hành, trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”.
Nói cách khác, đó là sống với tâm giải thoát có sẵn trong chính mình bằng cách vượt qua hay buông bỏ các tập khí sanh tử thuộc thế giới sanh diệt biến đổi của ngũ uẩn. Cảm thọ là tập khí sanh tử, thuộc thế giới ngũ uẩn, do nhân duyên mà sanh và diệt, thuộc bản chất khổ đau, không dính dáng gì đến tâm giải thoát; nếu duyên vào các cảm thọ mà khởi niệm vui buồn, yêu ghét, đồng hóa chúng là mình hay của mình, thì bấy giờ tập khí sanh tử (tham-sân- si) tiếp tục khởi lên che mờ tâm giải thoát; giống như đám mây đen khởi lên che khuất mặt trời vậy. Nhưng nếu các cảm thọ phát sinh mà không động tâm nghĩ suy phân biệt, không thuận ứng hay nghịch ứng, không rơi vào vui buồn, yêu ghét, không xem chúng là của mình, thì tập khí sinh tử (tham-sân-si) không có điều kiện khởi lên che mờ tâm giải thoát, tựa như mặt trời chói sáng giữa bầu trời quang đãng không gợn áng mây đen vậy.
Rõ là phương pháp thực tập thật đơn giản mà khó làm. Đơn giản bởi không có việc gì cần phải làm đối với tâm giải thoát, không sanh diệt; chỉ có một việc duy nhất là thức tỉnh về thực tại sanh diệt của các cảm thọ. Khó làm vì tập quán ái lạc (thói quen khao khát tìm kiếm lạc thọ) ái ngã (thói quen đồng hóa mình với các cảm thọ) không để cho tâm thức có được một giây phút thức tỉnh và nghỉ ngơi, cứ thúc giục tâm tư hết tạo ra cái này lại khao khát tìm cầu cái kia trong thế giới sanh diệt của ngũ uẩn, khiến cho tâm giải thoát hoàn toàn bị bỏ quên, bị che khuất. Quán thọ trên các cảm thọ chính là phương pháp quay về với tâm giải thoát, không sanh diệt bằng cách tập làm cho tâm thức tỉnh và dừng lại, không tạo tác thêm điều gì khiến cho thế giới phiền toái của ngũ uẩn tiếp tục vận hành và kéo dài, bặt dứt tập khí sanh tử, dứt trừ sanh y, khiến khổ đau luân hồi đi đến chấm dứt. Đây hẳn là cách trực tiếp buông bỏ mê lầm, buông bỏ khổ đau mà kinh Niệm xứ đã chủ ý nhấn mạnh là “con đường độc nhất (ekàyana-magga) đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết bàn”.
Đáng chú ý rằng, nói đến pháp môn quán thọ trên các cảm thọ tức là nói đến một tâm thức được tu tập vượt lên trên các cảm giác lạc, khổ hay bất khổ bất lạc, thoát khỏi mọi hệ lụy của cảm thọ, cắt đứt các điều kiện khiến khổ đau không tiếp tục sinh khởi và kéo dài, thực nghiệm giải thoát an lạc ngay tại đây và bây giờ. Tâm ấy được tu tập một giây thì giải thoát một giây, được tu tập một ngày thì giải thoát một ngày, được tu tập thường xuyên và bền bỉ thì đạt đến giải thoát vĩnh viễn. Vậy nên, điều quan trọng là cần phải thường xuyên thực hành pháp môn quán niệm để tập làm quen với cách thức nhiếp tâm và an trú tâm, để thay đổi các tập quán mê lầm, để bào mòn và xua tan dần các tập khí sanh tử, để thực nghiệm tâm giải thoát, càng ngày càng lớn hơn, càng tinh tế, sâu lắng và vững chắc hơn, cho đến lúc tâm ấy đạt đến giải thoát tuyệt đối hay bất động (akuppa cetovimutti).
Như vậy, cứ từ từ mà tập, từ từ mà làm theo như cách Đức Phật đã chỉ dạy thì dần dần sẽ có kinh nghiệm thế nào là tâm thanh thản an lạc mà không dính dáng gì đến các cảm xúc lạc và khổ, sẽ nhận ra có một tâm giải thoát, không sanh diệt vượt ra ngoài các cảm giác hạnh phúc và khổ đau thường xuyên thay đổi và sanh diệt. Đây chính là tiếng nói của tâm giải thoát, tuệ giải thoát, được thành tựu nhờ phương pháp quán thọ trên các cảm thọ, tức sự chứng ngộ lý vô thường sanh diệt của ngũ uẩn hay các pháp hữu vi, tâm không còn mê say tham đắm đối với những gì thuộc thế giới ngũ uẩn sanh diệt, thuộc thế giới cảm xúc thay đổi, thuộc thế giới khổ đau sinh tử luân hồi, đạt đến giải thoát hoàn toàn gọi là thực chứng thân lạc và tâm lạc.
Kinh Phật nói như vầy về tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đạt được nhờ phương pháp quán niệm ngũ uẩn hay thân, thọ, tâm, pháp:
“Này các Tỳ-kheo, thấy và biết như chơn mắt, thấy và biết như chơn các sắc, thấy và biết như chơn nhãn thức, thấy và biết như chơn nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ ấy; vị ấy không ái trước đối với con mắt, không ái trước đối với các sắc, không ái trước đối với nhãn thức, không ái trước đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy. Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tàn diệt trong tương lai. Và ái của vị ấy, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm sự hoan lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được đoạn tận; những thân ưu não của vị ấy được đoạn tận; những tâm ưu não được đoạn tận; những thân nhiệt não được đoạn tận; những tâm nhiệt não được đoạn tận; những thân khổ não được đoạn tận; những tâm khổ não được đoạn tận; vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc.
Này các Tỳ-kheo, thấy và biết như chơn tai... Này các Tỳ- kheo, thấy và biết như chơn mũi... Này các Tỳ-kheo, thấy và biết như chơn lưỡi... Này các Tỳ-kheo, thấy và biết như chơn thân... Này các Tỳ-kheo, thấy và biết như chơn ý, thấy và biết như chơn các pháp, thấy và biết như chơn ý thức, thấy và biết như chơn ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ ấy; vị ấy không ái trước đối với ý, không ái trước đối với các pháp, không ái trước đối với ý thức, không ái trước đối với ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy. Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tàn diệt trong tương lai. Và ái của vị ấy, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm sự hoan lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được đoạn tận; những thân ưu não của vị ấy được đoạn tận; những tâm ưu não được đoạn tận; những thân nhiệt não được đoạn tận; những tâm nhiệt não được đoạn tận; những thân khổ não được đoạn tận; những tâm khổ não được đoạn tận; vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc” (11).
Chú thích:
1. Đại kinh Khổ uẩn, Trung bộ.
2. Kinh Ratthapàla, Trung bộ.
3. Chuyên Ty-kheo Samitigutta, Trưởng lão Tăng kệ, Tiểu bộ.
4. Kinh Kakudha, Tương ưng bộ.
5. Đại kinh Saccaka, Trung bộ.
6. Kinh Điềm lành tối thượng, Kinh tập, Tiểu bộ.
7. Đại kinh Đoạn tận ái, Trung bộ.
8. Kinh Tư lường, Tương ưng bộ.
9. Kinh Trường Trảo, Trung bộ.
10. Kinh Niệm xứ, Trung bộ.
11. Đại kinh Sáu xứ, Trung bộ.
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp)
TIN LIÊN QUAN
Dành cho bạn
Thương mình là biết cho đi
Phật giáo thường thứcBạn biết cho đi, đó cũng là cách yêu thương bản thân. Vì cho đi chính là cách bạn tích lũy được phúc báu cho chính mình ngay đời này và những đời sau.
Công đức trả về không, phước đức tự nhiên có
Phật giáo thường thứcAi làm việc gì tốt thì đương nhiên là có phước đức rồi, nhưng công đức thì không có. Càng không có công đức thì phước đức mới nhiều, còn làm mà thấy mình có “công” thì phước đức sẽ không còn.
Làm thế nào để giúp vong linh người thân bị tai nạn, bị bệnh đột ngột qua đời?
Phật giáo thường thứcTrong thời gian gần đây, đột nhiên xảy ra một số tai nạn, hiện nay có rất nhiều người đang đặc biệt quan tâm đến một vấn đề đó là: nếu người thân của mình bất ngờ gặp tai nạn, những người còn sống rốt cuộc nên làm những gì?
Chánh niệm đôi khi chỉ đơn giản là nhớ ăn cơm trước khi quá đói
Phật giáo thường thứcNgười ta nói nhiều về chánh niệm, về sự tỉnh thức, về việc sống trong giây phút hiện tại. Nhưng nếu ta chịu khó ngồi xuống, hít thở ba hơi thật sâu, quán chiếu thật kỹ, ta sẽ thấy rằng chánh niệm đôi khi chỉ đơn giản là… nhớ ăn cơm trước khi quá đói.
Xem thêm














